Những bất bình của Giáo hội Công giáo đối với chính quyền Việt Nam trong vụ Tam Tòa đang lên cao trong lúc có ý kiến của cán bộ nghiên cứu phía chính phủ nói có những người đang 'biến vấn đề dân sự thành tôn giáo'.
Linh mục Huỳnh Công Minh, Tổng Đại diện giáo phận Sài Gòn lên tiếng cáo buộc các quan chức Quảng Bình ''cả vú lấp miệng em''.
Cha Minh nói như vậy với đài BBC sau ngày Chủ Nhật mà giáo phận Vinh gọi là ''ngày cầu nguyện lịch sử'' trong đó ít nhất hàng chục ngàn giáo dân đã tham gia cầu nguyện để ủng hộ những người bị công an ''đánh đập và bắt giữ.''
Nhưng một nhà nghiên cứu có tiếng cũng nói với BBC những người công giáo đã ''có bé xé ra to'' và nhiều giáo dân đã bị ''kích động'' để tham gia cầu nguyện.
Hiện một số giáo dân vẫn bị công an Quảng Bình giam giữ sau khi xảy ra va chạm trong lúc họ dựng nhà tạm trên nền của nhà thờ Tam Tòa bị bom Mỹ từ thập niên 60 và chính quyền đã xếp nhà thờ vào các chứng tích tội ác chiến tranh.
Giáo hội Vinh nói nhà thờ vẫn thuộc sở hữu của giáo hội và việc dựng nhà tạm không vi phạm pháp luật.
Họ cũng cáo buộc công an địa phương có hành động ''vô nhân đạo'' và ''đánh đập tàn nhẫn'' giáo dân và rằng công an chưa thả một số người vì sợ truyền thông thấy các thương tích của họ.
'Lơ mơ dẹp liền'
Nói chuyện với đài BBC từ thành phố Hồ Chí Minh hôm 27/7/2009, linh mục Huỳnh Công Minh nói:
''Nếu chính quyền Quảng Bình vẫn tiếp tục như vậy, không có nhận thấy chuyện làm quá sai, cứ tưởng là cả vú lấp miệng em được là không được,'
Ngoài ra, linh mục cho rằng trước chuyện giáo dân "đang bị đánh, bị đập" thì "đương nhiên giáo hội phải có tiếng nói".
Khi được hỏi tại sao trong hàng chục năm qua giáo hội không lên tiếng đòi quyền lợi xung quanh nhà thờ Tam Tòa mà đợi tới tận bây giờ, linh mục Tổng Đại diện Sài Gòn nói:
''Trước kia làm lơ mơ người ta đập dẹp liền, hổng nói năng gì được, rồi xung quanh chẳng ai biết gì. Nhưng bây giờ đâu được. Ví dụ cái tin vừa xảy ra cả thế giới biết thì ngày xưa đâu có vậy,"
''Tình hình mới là chỗ này: cái nguồn thông tin trước đây là hoàn toàn bị khống chế, những cái chuyện rõ ràng sai sự thật mà dùng cả hệ thống, rồi xem báo chí là cơ quan tuyên truyền của chính quyền thì làm sao được."
''Chính quyền có thể làm điều này điều kia không phù hợp thì người ta phải có ý kiến chứ, mà những ai có ý kiến khác thì quy là chống lại nhà nước, chống lại tổ quốc. Cái điều này hiện nay còn rất mơ hồ và người ta lợi dụng cái này để hăm dọa những người bất đồng ý kiến với chính phủ.''
'Hoàn toàn sai lệch'
Vê phía chính quyền, tỉnh Quảng Bình và các thông tin trên truyền thông nhà nước đều nói rằng lỗi thuộc về các giáo dân và cả giáo hội.
Công văn của tỉnh Quảng Bình gửi Tòa Giám mục Địa phận Vinh nói ''các vi phạm của giáo dân... không thể các linh mục quản xứ không biết. Điều đó cho thấy đã có sự lợi dụng giáo dân để gây áp lực với chính quyền.''
Còn Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Hồng Dương, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo ở Hà Nội thì cho BBC Việt ngữ hay:
''Đây là cách mà những người lợi dụng tôn giáo ở trong nước hay làm. Họ hay bé xé ra to. Rồi nhiều vấn đề dân sự, họ hay chuyển hóa thành vấn đề tôn giáo,"
''Còn về những người dân, chúng tôi biết có một số người họ đi theo các đoàn, họ gần như không có hiểu biết, không nắm được và nhiều thông tin của Giáo hội đưa là hoàn toàn sai lệch."
Theo ông Dương, có một cách tuyên truyền không đúng của một số nhân vật Công giáo. Từ kinh nghiệm riêng, ông cho hay:
''Như tôi nhận được một thư của một linh mục dấu tên nói là 'tàn sát nhân dân', rồi 'máu tử đạo đã đổ', rồi kích động giáo dân hãy tử đạo. Rồi nói là chính quyền đàn áp phụ nữ và trẻ em. Điều đó tôi có thể khẳng định là không có. Và Chính quyền Quảng Bình đã giải thích và vận động bà con trở về."
Tranh cãi quanh nhà thờ Tam Tòa có tính lịch sử nhưng chính quyền và Giáo hội công nhận các thời điểm khác nhau. Về việc này, Tiến sỹ Dương nêu quan điểm gần với của chính phủ:
''Một nơi chỉ còn là chứng tích, đổ nát, không còn gì. Bây giờ dân từ xứ khác kéo đến, từ thôn Cò Xẻ của Quảng Hợp, Quảng Trạch, cách đó tới 5 km kéo tới. Còn dân Tam Tòa, năm 1954 hầu hết đã di cư vào trong miền Nam, hầu hết không còn người dân gốc ở đấy nữa.''
Tiến sỹ Dương cũng nói chính phủ Việt Nam đang chuẩn bị để có kế hoạch thiết lập quan hệ ngoại giao toàn diện với Vatican và nói rằng chuyến thăm của Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết nếu diễn ra có thể nằm trong lộ trình này.
''Tôi thấy rằng việc thiết lập quan hệ này rất cần thiết, trong một bài viết về của tôi, tôi cũng nói là việc này có ích lợi cho cả phía Nhà nước Việt Nam và Vatican vì Việt Nam hiện nay có trên sáu triệu tín đồ công giáo và VN là bạn với tất cả các nước, thì không có lý gì mà lại không thiết lập quan hệ với Vatican.''
Cơ chế 'xin - cho'
Về phía linh mục Tổng Đại diện Huỳnh Công Minh, trước câu hỏi liệu Đảng Cộng sản Việt Nam có lo ngại trước số giao dân lên tới hàng triệu và có sự liên thông ở Việt Nam không, linh mục nói:
''Họ không phải sợ Công giáo mấy triệu (giáo dân) là vì sợ số lượng. Nhưng họ sợ bất cứ ai không nghe theo những điều họ nói. Điều gì đúng mình theo, điều gì không đúng mình không theo thì người ta sợ cái điều đó. Người ta sợ những người chống lại như vậy mà có sự nối kết với nhau,"
''Dầu muốn dầu không người Công giáo trên thế giới có tổ chức và cái điều này là điều mà đảng Cộng sản ở bất kỳ nơi nào cũng sợ."
Cũng đang có dấu hiệu Giáo hội muốn lên tiếng về các vấn đề mà chính một số trang web Công giáo gọi là xã hội dân sự. Từ góc độ này, linh mục Huỳnh Công Minh nói:
''Nói tự do tín ngưỡng, nói tự do đi vô nhà thờ cầu nguyện thì chuyện đó hoàn đoàn đúng. Nhưng đâu phải tôi đi nhà thờ tôi chỉ cầu nguyện, tôi cũng có ý kiến của tôi chứ. Họ chỉ muốn anh tự do anh vào nhà thờ anh chỉ được cầu nguyện, không có được có ý kiến ngoài xã hội, chuyện này chuyện kia,"
Ông tin rằng ''Ngay trong nội bộ của Đảng, theo những người bạn mà tôi có, họ có được phát biểu lên một cách rõ ràng, công khai đâu. Nếu người ta phát biểu công khai thì chụp cho cái mũ là chống đảng, phản đảng."
''Sự thật là như vậy. Chính quyền miền Nam trước đây cũng vậy, nếu mình chống lại chính quyền thì hổng có yên thân.
Và điều ông phản đối là quan hệ giữa chính quyền và Giáo hội theo kiểu "chế độ xin - cho."
''Mà xin - cho thì mình chỉ có việc xin, người ta vui thì người ta cho, người ta không vui thì không cho chứ không có tiêu chuẩn nào cả. Thì điều này Giáo hội không chấp nhận, không bao giờ hài lòng."
Ông cũng khẳng định vì tình hình đã thay đổi nên "không có dễ mà trở lui lại giai đoạn trước."
'Không lặp lại'
Linh mục Huỳnh Công Minh cũng nói: ''Theo tôi biết những người không cùng tín ngưỡng với tôi, thậm chí cả những người bạn của tôi ở trong Đảng người ta đều thấy điều đó. Cũng như ông Võ Văn Kiệt chắc chắn ông ấy có những suy nghĩ từ lâu nhưng không nói ra được, cuối đời mới nói ra được là đất nước này đâu phải chỉ của Đảng. Công lao gìn giữ đất nước, bảo vệ đất nước, công lao thống nhất đất nước đâu chỉ có riêng người Cộng sản.
''Thế nhưng người ta cứ đồng hóa chuyện Đảng là đại diện cho toàn dân, thể hiện ý chí của toàn dân, làm sao mà thể hiện được. Nếu mình thể hiện mà dân người ta phấn khởi thì điều đó là điều đáng mừng.
''Nhưng nó không phải vậy. Nhất là trong tình hình hiện nay tham nhũng tràn lan, đạo đức xã hội nó suy đồi không thể tưởng tượng được thì người lãnh đạo về mặt nhà nước, về mặt chính phủ phải chịu trách nhiệm,"
Trong các tài liệu Giáo hội công bố gần đây bắt đầu có tín hiệu người Công giáo Việt Nam coi các vấn đề của cả dân tộc là của chung, từ không gian công cộng cho đến cả chuyện biển đảo. Linh mục Minh giải thích:
''Tôi tin là thực sự ra để làm thay đổi tình hình trên diện rộng như là thay đổi của đất nước thì tám triệu người Công giáo đâu có làm gì được mà phải là toàn dân. Nếu người Công giáo có tham gia vào thì cũng trong tỷ lệ đó, cũng không nghĩ mình có thể đóng vai trò gì lớn lao."
''Nhưng tôi tin rằng đại đa số nguời dân hiện nay với truyền thống ngàn xưa của cha ông để lại thì người Việt Nam không thể chấp nhận sống trong tình trạng mà bị chèn bị ép, tiếng nói của mình, suy nghĩ của mình không được bộc lộ ra.''
Trả lời BBC từ Hà Nội, Tiến sỹ Nguyễn Hồng Dương, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo nhận định sẽ không có chuyện tôn giáo có thể góp phần dẫn tới sự thay đổi chế độ như ở Đông Âu.
''Chắc là lịch sử sẽ không lặp lại. Việt Nam có đường lối đối ngoại giao rất cụ thể và tính chất độc lập. Chắc lịch sử sẽ không lặp lại như thế,"
''Người giáo dân Việt Nam vẫn gắn bó với dân tộc. Họ có phương châm sống tốt đời đẹp đạo, sống Phúc âm trong lòng dân tộc, phụng sự đồng bào."
''Trong quốc hội đầu tiên của Việt Nam có linh mục Phạm Bá Trực là Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội."
Ông Dương cũng nhắc lại quan điểm của đảng cầm quyền đặt mối quan hệ mà ông nói là 'không ngăn cách' giữa tư cách tín đồ và công dân, thậm chí đảng viên cộng sản.
''Nhiều linh mục, giáo dân tham gia quốc hội, hội đồng nhân dân. Giáo dân và các tín đồ tôn giáo nếu phấn đấu tốt, đều có thể đứng trong hàng ngũ của đảng, chúng tôi không thấy có ngăn cách nào với giáo dân, miễn là họ thực hiện đúng, vừa là tín đồ vừa là công dân.''
BBC
Tuesday, 28 July 2009
Saturday, 25 July 2009
Corruption in Vietnam
EXECUTIVES of a Reserve Bank of Australia subsidiary at the centre of a global contracts scandal claimed a Vietnamese agent paid at least $10 million in commissions had "primarily" worked as a translator.
Melbourne-based Securency Pty Ltd won a major contract in 2002 to supply polymer banknotes to Vietnam after hiring a company that employed the son of the governor of the State Bank of Vietnam as its local agent.
Company insiders have revealed that Securency paid large commissions, including some to a Swiss bank account, to the Hanoi-based Company For Technology and Development, or CFTD.
Securency is half-owned by the RBA and supplies polymer material to make banknotes in Australia and 26 other countries.
A 2007 Vietnamese Government corruption inquiry into the Securency deal found it to be "irregular", lacking in transparency and harmful to the reputation of the bank governor, Le Duc Thuy.
In a 2007 interview obtained by The Age, Securency executives said the services provided by CFTD primarily involved translating documents, organising meetings and picking up people from the airport. They said they had no dealings with the central bank governor's son, Le Duc Minh.
The tape recording reveals claims by Securency that Australian embassies had recommended their overseas agents.
Securency is under investigation by the Australian Federal Police over commissions paid to agents to help win contracts from foreign governments.
The Age reported at the weekend that several Securency agents have been previously implicated in corruption inquiries. Securency has also paid agent commissions into offshore tax haven accounts.
Company insiders allege the large commissions paid to agents in corruption-prone countries exposed Securency to allegations money may have been used to pay kickbacks.
During the 2007 interview with a foreign journalist, Securency's managing director, Myles Curtis, refused to confirm whether commissions had been paid to CFTD.
"A lot of the (CFTD's) roles in the early stages were to do with interpreting and translating … so that is the primary role they play. So it is the liaison between the state bank," he said.
Securency's Asia manager, Ron Marchant, said: "They do other things too. If we would like to have a meeting in the state bank or a meeting in the printing works, we just ask them to go and make the appointments for us, arrange hotel accommodation, collect people from airport, things like that that you generally expect an agent to do."
Mr Marchant claimed Australian diplomatic assistance. "All of our agents we appoint we go through the Australian embassy. We get a list of people who they believe we we can work with in reputable organisations and then we would go through the process of investigating or evaluating them and we make a decisions, and in this case, it was CFTD that we decided to run based on … the recommendation from the Australian embassy and … our own evaluation."
Mr Marchant said he had no dealings with the governor's son and was not familiar with the CFTD subsidiary, Banktech, which the son directed.
But Banktech documents show Securency as one of its "overseas partners" and indicate Banktech was the "exclusive supplier" for Vietnam's polymer banknote project.
The Department of Foreign Affairs and Trade said last night it had assisted Securency's overseas operations and lobbied governments for the company.
Foreign Minister Stephen Smith confirmed that he personally lobbied India, Brazil and Mexico on behalf of Securency due to its strong RBA links.
"On at least one occasion I have made representations on their behalf to have countries contemplate using their expertise in terms of the development of currency," he said.
Mr Smith said he would be happy to detail the representations he had made.
He said the AFP investigation was appropriate following allegations about the company. "That's a matter for the Federal Police and we should await the outcome of their investigation."
The RBA and Treasurer Wayne Swan yesterday declined to answer questions about Securency's use of agents because of the investigation.
The former Director and Deputy Director of the ODA-funded HCM City East-West Avenue and Water Environment Project Management Board were arrested on February 11 for abuse of position and power.
Huynh Ngoc Si was arrested on February 11.
The arrest of Huynh Ngoc Sy and Le Qua, former director and deputy director of the project, produced a stir because it was previously said that the case might be thrown out.
During this Tet, it was rumoured that Sy had gone to Canada for medical treatment though he was banned from leaving Vietnam by the Immigration Management Agency under the Ministry of Public Security.
The case attracts special attention because it has connections to the corruption case of Tokyo-based Pacific Consultants International (PCI) Company. Some officials of PCI were prosecuted and convicted of “graft” and “violating Japan’s competition law”.
This is a big scandal in Japan and Vietnam as well, as it was related to a Vietnamese official, Huynh Ngoc Sy.
On Dec. 8, 2008, in reply to a judicial mandate by the Tokyo Procuracy, the investigative agency launched an investigation into Sy and Qua’s connections to an alleged corruption case involving officials from PCI.
According to the results of the investigation, Sy and Qua abused their positions by renting the East-West Avenue project management board’s office building to PCI and pocketing tens of thousands of US dollars that had been paid in advance by PCI.
On November 19, 2008, Huynh Ngoc Si was suspended from his job. In late December 2008, Japan sent case reports to the Vietnamese Supreme People’s Procuracy.
The case went to trial on December 8.
Si and Qua will remain in custody for four months to serve investigation. According to some sources, Si and Qua will be investigated for leasing part of the office of the East-West Avenue and Water Environment Project Management Board to PCI to earn money and problems related to site clearance and compensation in implementing the above project.
Huynh Ngoc Si, 56, was the Director of the HCM City Volunteer Company from 1995-1999. From 1999 to October 2000, he was the vice chief of the HCM City Volunteer Forces. He then held the position of Deputy Director of the Transport and Director of the East-West Avenue and Water Environment Project beginning in October 2000.
The East-West Avenue has a total length of 21,890km. Its construction was kicked off on January 31, 2005 after nearly eight years for preparation and site clearance. The total investment capital in this work is nearly VND9,864 billion (around US$616.5 million), including VND6,394 billion of ODA capital from the Japan Bank for International Cooperation and the remaining from HCM City’s budget.
The East-West Avenue tops the ten key construction works which have poor quality that were reported to the Prime Minister in 2008 by the State Council for Evaluating Construction Works.
A former executive of Philadelphia-based Nexus Technologies Inc. pleaded guilty today in connection with his participation in a conspiracy to bribe Vietnamese government officials in exchange for lucrative contracts to supply equipment and technology to Vietnamese government agencies, in violation of the Foreign Corrupt Practices Act (FCPA).
Joseph T. Lukas, 60, a resident of New Jersey, was a partner in Nexus Technologies Inc. until 2005. According to court documents, Nexus Technologies Inc. was a privately owned export company that identified U.S. vendors for contracts opened for bid by the Vietnamese government to purchase a wide variety of equipment and technology, including underwater mapping equipment, bomb containment equipment, helicopter parts, chemical detectors, satellite communication parts and air tracking systems. Lukas was responsible for overseeing the negotiation of contracts with suppliers in the United States.
In connection with his guilty plea, Lukas admitted that from 1999 to 2005, he and other employees of Nexus Technologies Inc. agreed to pay, and knowingly paid, bribes to Vietnamese government officials in exchange for contracts with the agencies for which the officials worked. The bribes were falsely described as "commissions" in the company’s records.
Lucas was arrested on Sept. 5, 2008, after being indicted by a federal grand jury in Philadelphia on one count of conspiracy to bribe Vietnamese public officials in violation of the FCPA and one substantive count of violating the FCPA. Lukas was indicted on Sept. 4, 2008, along with the company and alleged co-conspirators Nam Nguyen, Kim Nguyen and An Nguyen. Cases are still pending against the remaining defendants and the company.
At sentencing, scheduled for April 6, 2010, Lukas faces a maximum sentence of 10 years in prison.
The case is being prosecuted by Assistant U.S. Attorney Jennifer Arbittier Williams for the Eastern District of Pennsylvania and Trial Attorney Kathleen M. Hamann of the Criminal Division’s Fraud Section. The case was investigated by the FBI and the U.S. Department of Commerce, Office of Export Enforcement.
In 2002, Siemens COM paid approximately $140,000 in bribes in connection with a tender worth approximately $35 million for the supply of equipment and services related to a Global Systems mobile network for Vietel, a government owned telecommunications provider founded by the Vietnamese Ministry of Defense. Two separate payments totaling $140,000 were made to the Singapore account of a Siemens business consultant. The payments were then routed through a U.S. correspondent account and likely paid to officials at the Vietnamese Ministry of Defense. The payments were part of a much larger bribery scheme concocted by high-level managers at Siemens regional company in Vietnam, SLV, to pay bribes to government officials at Vietel and the Vietnamese Ministry of Defense in order to acquire Phase I of the Vietel GSM tender.
In a June 2002, facsimile that discussed the bribery scheme, the former head of COM sales for the regional company described Siemens’ explicit agreement to pay 8% of the value of the Vietel project to officials at the Ministry of Defense and 14% of the project value to officials at Vietel. In August and September 2002, Siemens signed agreements with two business consultants who were retained for the sole purpose of funneling the bribes to government officials connected to Vietel. Ultimately, Siemens was unsuccessful in its pursuit of the Vietel project and lost the tender before paying additional bribes.
Friday, 24 July 2009
Quan điểm và cuộc sống
“… Điều tủi nhục cho dân tộc Việt Nam - dân tộc anh hùng lừng danh khắp thế giới - cuối cùng lại là dân tộc bị kềm kẹp nặng nề nhất, không có được một chút quyền dân chủ tự do (ngôn luận, báo chí, tư tưởng, quan điểm, mít tinh, biểu tình, đình công...)…”
A. Dân chủ tự do là thước đo chính xác về lòng trung thành của ĐCSVN đối với dân tộc mình
Xã hội văn minh là xã hội dân chủ tự do. Ngược lại chính dân chủ tự do càng thúc đẩy nền văn minh phát triển. Vì vậy dân chủ tự do trở thành xu thế tất yếu của thời đại và là yêu cầu không thể thiếu được của xã hội loài người. Do đó, đối với dân tộc Việt Nam hiện nay, dân chủ tự do càng cấp bách hơn bất cứ lúc nào hết. Dân chủ tự do là một trong những yếu tố căn bản nhất tạo nên định hướng chiến lược của Việt Nam. Vậy vấn đề dân chủ tự do từ trước tới nay ở Việt Nam ra sao?
Từ khi ra đời năm 1930 đến năm 1945 (cách mạng tháng 8), Đảng cộng sản Việt Nam hoạt động chủ yếu trong điều kiện bí mật, bất hợp pháp mặc dù trong hoàn cảnh thời gian nào đó, có một bộ phận của Đảng hoạt động công khai, bán công khai. Nhưng có điều xuyên suốt trong quá trình dài đó, Đảng cộng sản Việt Nam - người biết rõ khát vọng lớn lao về độc lập và dân chủ tự do của dân tộc Việt Nam trên một thế kỷ làm nô lệ cho chủ nghĩa đế quốc (Pháp, Nhật, Mỹ) - đã luôn luôn phát động phong trào đấu tranh rộng rãi của các tầng lớp nhân dân từ thành thị đến nông thôn đòi dân chủ tự do gắn liền với cuộc đấu tranh đòi và bảo vệ lợi ích của quần chúng; cụ thể là đấu tranh đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản, tự do hội họp, tự do lập hội, lập nghiệp đoàn, tự do đi lại, xuất dương (ra nước ngoài), tự do kết hôn, nam nữ bình đẳng, tự do biểu tình, tự do đình công... coi dân chủ tự do là vũ khí sắc bén để bảo vệ lợi ích quần chúng; đồng thời là động lực phát triển phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng chống áp bức bóc lột, bất công. Ngay trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và chống Mỹ (1955-1975), ở các cùng tạm chiếm (địch hậu) như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng v.v., Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn phát động quần chúng đấu tranh chống kềm kẹp, áp bức, đòi dân chủ, dân sinh kết hợp với đấu tranh võ trang cho đến khi kháng chiến thắng lợi. Tại Sài Gòn - trung tâm đầu não của các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trước đây - bất chấp khủng bố, đàn áp dã man, quần chúng nhân dân thành phố liên tục vùng lên đấu tranh chống các chính quyền độc tài, phát xít, tay sai của đế quốc, đòi dân chủ tự do bằng hội thảo, báo chí bán công khai, bằng mít tinh biểu tình, đình công thậm chí bằng tự thiêu (của tín đồ Phật giáo). Do đó, đối với nhân dân Việt Nam nói chung đặc biệt với nhân dân Miền Nam (bao gồm thanh niên, phụ nữ, sinh viên, học sinh, trí thức, văn nghệ sĩ, công nhân lao động, nông dân, tín đồ Phật giáo, Công giáo và các từng lớp khác) nói riêng, vấn đề tự do dân chủ không phải là điều gì xa lạ đối với họ; mà ngược lại chính dân chủ tự do đã thấm vào xương, vào máu của nhân dân Việt Nam, đã trở thành giá trị thực sự được tạo ra bằng sự hy sinh lớn lao, dai dẳng thông qua thực tiễn đấu tranh ngoan cường, mặt giáp mặt với quân thù của dân tộc Việt Nam suốt 45 năm chiến đấu cách mạng. Đó là cái giá rất đắt phải trả cho một giá trị - giá trị dân chủ tự do. Điều đó có nghĩa là giá trị ấy tuyệt đối không thể biến thành đặc ân của bất cứ ai.
Thế nhưng, từ sau thắng lợi lẫy lừng Điện Biên Phủ (1954) và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975), đất nước Việt Nam đi vào con đường xã hội chủ nghĩa dưới sự độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thì bốn chữ: Dân chủ-Tự do và cuộc đấu tranh cho dân chủ tự do dần dần bị lu mờ và tắt lịm; vì lúc bấy giờ, mọi người đều được giáo dục rằng: trong chủ nghĩa xã hội, mọi vấn đề đều có sự lãnh đạo của Đảng, mọi thứ đều tốt cả, nên không cần có đấu tranh của quần chúng. Đấu tranh của quần chúng chỉ tồn tại trong xã hội cũ - xã hội thuộc địa. Trong chủ nghĩa xã hội, Đảng và nhân dân là một; giữa Đảng và nhân dân không thể có ý kiến, quan điểm khác nhau, không có đối lập, đối kháng, nên không thể có đấu tranh, đình công, biểu tình. Do đó, trong chủ nghĩa xã hội không có vấn đề đấu tranh cho dân chủ tự do vì chế độ xã hội chủ nghĩa (chuyên chính vô sản) là chế độ "dân chủ một triệu lần hơn chủ nghĩa tư bản " (?)
B. Chủ nghĩa xã hội không thể công nhận có đấu tranh của quần chúng
Song, thực tiễn thì rất phức tạp, luôn luôn vận động theo qui luật và không hề diễn biến theo xét đoán chủ quan của con người. Vả lại, trong chủ nghĩa xã hội, thực tế thì có biết bao nhiêu vấn đề không tốt, không kém gì những vấn đề không tốt trong xã hội thực dân, đế quốc trước đây, thậm chí có những mặt còn nghiêm trọng, tồi tệ hơn nhiều; cụ thể là trong chủ nghĩa xã hội vẫn có những kẻ dựa vào địa vị, quyền lực mà áp bức, bóc lột quần chúng,cướp đất, cướp nhà, trấn áp, uy hiếp, trù dập quần chúng, bắt bớ giam cầm họ một cách phi pháp; xã hội dẫy đầy bất công tham nhũng, ăn hối lộ "tràn đồng"; thất nghiệp, ăn mày, làm đĩ nhan nhãn; giết người cướp của lộng hành; đồng lương chết đói kéo dài 15-20 năm không được cải thiện trong khi giá cả cứ tăng vùn vụt 10 lần, 20 lần...(năm 1975: 1 tô phở chỉ có 5 đồng nhưng đến năm 91-92 là 2000 đồng trở lên và mọi thứ hàng hoá khác đều tăng giá giống như vậy).
Do chính sách độc tài, do bị kềm kẹp nặng nề và sợ bị "chụp mũ", bị trấn áp nên quần chúng nhân dân ngán ngại đấu tranh đòi và bảo vệ quyền lợi bức bách của mình như vấn đề tiền lương, giá cả, thuế khoá, nhà ở, ruộng đất, sa thải, thất nghiệp, tham nhũng, hối lộ, bắt bớ giam cầm trái phép, v.v... và đành phải im hơi lặng tiếng, cam chịu lầm than cơ cực, sống cuộc đời nô lệ như xưa kia mặc dù vẫn mang danh là công dân của nước Việt Nam "xã hội chủ nghĩa".
Rõ ràng ở Việt Nam - đất nước của một dân tộc anh hùng - chỉ có độc lập (không còn bị nước ngoài thống trị), chớ không hề có dân chủ tự do, đặc biệt về chính trị, tư tưởng, mặc dù nhân dân Việt Nam đã chịu hy sinh hàng triệu người cho cuộc đấu tranh lâu dài vì độc lập dân tộc, vì dân chủ tự do và vì ấm no hạnh phúc (tuy về kinh tế với chính sách đổi mới gần đây, người nông dân được tự do canh tác trên mãnh đất của mình và người sản xuất kinh doanh được tự do hoạt động theo ngành nghề của họ).
C. Hậu quả gì khi các quyền dân chủ tự do của nhân dân bị tước đoạt?
Ai cũng biết rằng độc lập dân tộc, dân chủ tự do, ấm no hạnh phúc là những nội dung, yêu cầu rất quan trọng mang tính chất chiến lược tuy nó có khác nhau nhưng lại quyện chặt vào nhau trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân Việt nam - cuộc kháng chiến cứu nước trường kỳ và toàn thắng. Chính vì lẽ đó mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra lời giáo huấn sâu sắc là: “Không có gì quí hơn độc lập tự do", có độc lập mà không có tự do ấm no hạnh phúc thì độc lập cũng vô nghĩa. Nhưng điều khó hiểu là những người kế tục sự nghiệp cao cả của cụ Hồ, một mặt luôn luôn đề cao tư tưởng Hồ Chí minh, mặt khác thì lại vô hiệu hoá lời dạy ấy của Cụ, đã tách dân chủ tự do khỏi nội dung độc lập dân tộc. Cho nên ở Việt Nam, như đã nói trên chỉ có độc lập dân tộc chứ không có dân chủ tự do là như thế đó.
Chính Đảng cộng sản Việt Nam đã tước đoạt của nhân dân các quyền tự do mà nhân dân đã từng trả giá quá đắt - thứ vũ khí mà nhân dân phải có để bảo vệ lợi ích của mình khi nó bị vi phạm bất cứ trong hoàn cảnh nào. Dân chủ tự do bị chà đạp, vũ khí tự vệ bị tước đoạt thì nhân dân giống như những người bị xiềng xích, bị bịt tai, bịt mắt, khớp miệng và tất nhiên gần 70 triệu người Việt Nam không thể không biến thành tù binh của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trên khắp thế giới sau thắng lợi của cách mạng và khi đã cầm quyền rồi, các Đảng cộng sản (Liên xô, Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Đông Ấu cũ, Cuba,...) đều trở thành các đảng độc tài, chuyên chế, phản dân chủ. Cho nên, các Đảng nói trên rất sợ dân chủ tự do, sợ nói đến dân chủ, sợ đối thoại với quần chúng và luôn luôn sẵn sàng đàn áp những quan điểm tư tưởng trái với mình, đàn áp những yêu sách về dân chủ của quần chúng mặc dù hằng ngày trên miệng của người lãnh đạo đảng luôn nói về "quyền làm chủ của nhân dân", trong khi trên thực tế, các quyền dân chủ tự do của công dân như hiến pháp qui định đã bị chà đạp trắng trợn thì lấy gì để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đối với đất nước xã hội (làm chủ khác hẳn với làm theo lịnh của cấp trên).
Khi nói đến nhân dân quần chúng là phải nói đến vấn đề dân chủ. Chỉ có thông qua việc thực hiện nghiêm chỉnh các quyền dân chủ tự do của nhân dân thì người lãnh đạo mới thiết lập được mối liên hệ chân chính giữa mình với nhân dân quần chúng. Nhân dân bị kiềm kẹp, không được quyền tự do bộc lộ ý kiến tư tưởng, quan điểm, tâm tư nguyện vọng của mình mặc dù có thể nó không phù hợp với quan điểm của lãnh đạo thì làm sao giải thích được rằng đất nước này đã có dân chủ tự do ?
D. Ai khác ý kiến quan điểm thì bị quy chụp trấn áp
Phải chăng Việt Nam đã có "dân chủ tự do" khi mà một uỷ viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (khoá 6) Trần Xuân Bách chỉ vì phát biểu ý kiến về vấn đề đa nguyên chính trị (dân chủ-công khai-đa đảng) thì lập tức bị lên án, bị cách chức ngay? Hay như ông Bùi Tín - Phó tổng biên tập báo Nhân Dân (cơ quan trung ương của ĐCSVN) phải tìm cách ra nước ngoài để được tự do phát biểu ý kiến của mình về chuyên chính độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam với nhân dân cả nước và thế giới?
Phải chăng đó là dân chủ tự do khi nữ văn sĩ Dương Thu Hương phát biểu ý kiến phản đối chuyên chính vô sản, độc quyền lãnh đạo của ĐCSVN, đòi thi hành dân chủ tự do thì bị qui là "phản động" và bị khai trừ khỏi Đảng, bị bắt, bị giam (sau một thời gian thì được trả tự do nhờ có sự can thiệp của tổ chức nhân quyền quốc tế)? hoặc như Ông Nguyễn Thành Thơ ( Mười Thơ) - nguyên chủ tịch hội nông dân tập thể Việt Nam - bị quản thúc mấy năm liền chỉ vì Ông quyết tâm đấu tranh đòi Đảng và nhà nước trả lại ruộng đất (đã hợp tác hoá) cho người nông dân để họ được tự do canh tác trên mãnh đất của mình và được cơm no áo ấm?
Phải chăng đó là dân chủ tự do khi Đảng cộng sản Việt Nam làm áp lực buộc hai Đảng Dân Chủ và Xã Hội - bạn đường kháng chiến mấy mươi năm của mình phải tuyên bố tự giải tán "vì đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử" trong lúc nhân dân khắp thế giới đang vùng lên đấu tranh phá tan các chuyên chế độc tài và thành lập nền chính trị đa nguyên - dân chủ đa đảng ? hay như trường hợp của Ông Bảy Triển - Phó giám đốc đài truyền hình Cần Thơ - bị cách chức và cho nghỉ hưu chỉ vì ông đã làm tốt chức năng thông tin của mình, tường thuật đầy đủ trong 7 đêm liền diễn biến của phiên toà xét xử Dương văn Ba (cán bộ kinh tế của tỉnh) tại tỉnh Minh Hải (đầu năm 1990) và phiên toà được lãnh đạo đánh giá là "xét xử đúng đắn"? (vì lãnh đạo chỉ cho phép đưa tin về kết qủa xét xử, tuyên án chớ không cho phép tường thuật toàn bộ diễn biến của phiên toà. Vả lại, đông đảo nhân dân và cán bộ nghỉ hưu Đồng bằng Cửu Long phản đối phiên toà và đã có đơn tập thể khiếu nại, đòi xét xử lại).
Phải chăng đó là dân chủ tự do khi những người kháng chiến thời kỳ ở Sài Gòn không được quyền lập Hội những người kháng chiến mà chỉ được phép lập Câu lạc bộ thôi, không được quyền hội thảo chống tiêu cực, không được quyền làm mít tinh kỷ niệm ngày truyền thống (Nam Bộ kháng chiến), báo Truyền thống kháng chiến bị tịch thu và bị đình bản, Câu lạc bộ những người kháng chiến thành phố Hồ Chí Minh bị cấm hoạt động và cuối cùng nhiều cán bộ của Câu lạc bộ những người kháng chiến TP kể cả chủ nhiệm bị bắt, bị giam, bị quản thúc (từ đầu năm 1990) thậm chí nhiều người có quan hệ tốt với CLB những người kháng chiến thành phố (đọc báo "truyền thống kháng chiến", dự hội thảo...) ở các tỉnh Sông Bé, Tiền Giang, Cửu Long, Hậu Giang,...cũng bị khủng bố, đàn áp?
E. Đảng Cộng Sản Việt Nam phát động đấu tranh "chống đa nguyên, đa đảng"
Không phải vì dân tộc, đất nước mà chính vì sợ mất vai trò lãnh đạo và đặc quyền, đặc lợi của cá nhân hoặc một nhóm người lãnh đạo mà Đảng cộng sản Việt Nam đã chà đạp thô bạo hiến pháp của nước CHXHCN Việt nam, biến nó thành một thứ trang trí, không có giá trị thực tiễn trong việc bảo vệ dân chủ tự do và lợi ích của công dân; ra sức chống lại quyết liệt những đòi hỏi về các quyền dân chủ tự do của nhân dân dưới chiêu bài "chống đa nguyên, đa đảng" để hù hoạ trước hết trong nội bộ Đảng và sau đó trong đông đảo quần chúng rằng "đa nguyên, đa đảng là một quan điểm rất nguy hiểm, chống Đảng, chống cách mạng, chống chủ nghĩa xã hội của bọn phản động "nhằm siết chặt đội ngũ cán bộ, đảng viên tạo thêm sức mạnh để chống "đa nguyên, đa đảng" và làm cho quần chúng ngán ngại quan điểm nói trên. Việc làm đó nhắm vào 2 mục tiêu: một mặt, nó cô lập cao độ và làm suy yếu lực lượng đấu tranh cho dân chủ tự do của cả nước; mặt khác nó che đậy khéo léo bản chất độc tài phản dân chủ của Đảng cộng sản.
Tất nhiên, sự hù doạ ấy có tác dụng lôi kéo những người nhẹ dạ, khiếp đảm, kém hiểu biết, ngả về phía độc tài chuyên chế, phản dân chủ, nhưng nó không thể lung lạc được những người trung thực, hiểu biết, có đầu óc dân chủ.
Để bảo vệ chế độ độc tài, chuyên chế, phản dân chủ ấy trong nền kinh tế thị trường phồn vinh (kinh tế tư bản mà Đảng cộng sản Việt Nam buộc phải chấp nhận để cứu lấy mình), người ta đưa ra lập luận để thực hành rằng Việt Nam có đặc điểm riêng là một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ dân trí kém nên không thể thiết lập một chế độ dân chủ tự do rập khuôn như ở các nước phương Tây. Do đó Đảng cộng sản Việt Nam thông qua Ông Võ Văn Kiệt - đang là chủ tịch Hội đồng bộ trưởng - chánh thức mời Ông Lý Quang Diệu (cựu thủ tướng Xinh-ga-po) sang làm cố vấn cho Việt Nam (gần cuối năm 1992) không những về kinh tế mà cả về chính trị. Điều đó có nghĩa là Việt Nam sẽ làm theo mô hình Xinh-ga-po: thiết lập nền kinh tế thị trường phồn vinh nền chính trị chuyên chế độc tài, phản dân chủ. Thật là đáng tủi nhục cho dân tộc Việt Nam với gần 70 triệu người và với một lịch sử chiến đấu oai hùng mà thế giới đều biết và khâm phục, ngày nay lại được so sánh và xếp hạng về chính trị nganh hàng với Xinh-ga-po (với non 3 triệu dân và với một lịch sử bình thường). Từ đó cho thấy rằng xuyên qua tầm nhìn của Đảng cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam lại chưa có trình độ và chưa xứng đáng được quyền hưởng một chế độ dân chủ tự do đúng nghĩa đầy đủ của nó, mặc dù họ đã hy sinh quá lớn lao, máu chảy, đầu rơi,núi xương, sông máu cũng chính là vì dân chủ, tự do.
Quyết định một vấn đề rất quan trọng liên hệ đến vận mạng của dân tộc, đất nước như nói trên mà không cần trưng cầu ý dân lại chủ yếu vẫn làm theo phương thức độc đoán, độc tài; rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay khinh rẻ dân tộc Việt Nam cỡ nào! Nhưng cả nước lại im lặng, có phải là đồng tình không? Hay vì bị kềm kẹp quá nặng nề mà không thể cất tiếng lên được? Cho nên, trước tình hình phức tạp nầy, có nhiều người đặt ra câu hỏi: Dân chủ đa nguyên là gì ?
G. Đa nguyên: biểu tượng muôn màu muôn vẻ của mọi sự vật
Chúng ta biết rằng tạo hoá, thiên nhiên vạn vật, xã hội loài người, tất cả điều là biểu tượng của đa nguyên - tổng hợp những cái khác nhau của mọi sự vật và thúc đẩy sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau của chúng.
Khi nói đến vũ trụ, người ta nghĩ trong đó không những có mặt trời, mặt trăng, trái đất, sao hỏa, sao kim mà còn có hàng triệu, hàng tỷ thiên hà và mỗi thiên hà có hàng triệu hàng tỷ vì sao (hành tinh) mà mắt thường của chúng ta không thể nhìn thấy rõ.
Còn nói đến sự vận động của trái đất, nó không những tạo ra ban ngày ban đêm, mặt trời mọc, mặt trời lặn, đêm sáng trăng, đêm tối như mực, bốn muà: xuân, hạ, thu, đông; mưa nắng mà cả bão lụt dông tố, hạn hán, động đất, hoạt động của núi lửa, dòng chảy dữ dội và tàn phá của dung nham; những cơn lốc rất tai hại; những đợt nước biển dâng cao kéo theo nhiều thảm hoạ, đất sụp, núi sụp...
Rừng không những ở núi cao mà còn có rừng ở thung lũng, đồng bằng và dưới nước (rừng sát). Điều chắc chắn là sự cấu tạo của rừng sát hoàn toàn khác với rừng trên núi cao. Rừng không những có nhiều loại cây rất phong phú mà còn có nhiều loại thú, loài chim khác nhau thậm chí có những loại hoa hương sắc kỳ diệu và các loại cây thuốc trị bịnh quí giá.
Có vườn hoa nào mà chỉ có một loại hoa, ít nhất phải có hàng chục, thậm chí hàng trăm loại với hàng trăm màu sắc lộng lẫy và hương thơm đậm đà quyến rũ.
Trong văn học nghệ thuật, tự do cá nhân của con người được nẫy nở bao nhiêu thì văn học nghệ thuật được nẫy nở bấy nhiêu. Chính sự nẫy nở tự do ấy tạo nên sự khác nhau - muôn màu, muôn vẻ - trong văn học nghệ thuật mà người ta thường gọi đó là sự sáng tạo đầy cá tính. Có vậy, văn học nghệ thuật mới có ý nghĩa lớn lao và không ngừng phát triển. Nếu ca hát giống nhau, âm nhạc giống nhau, viết văn giống nhau thì văn học nghệ thuật còn có ý nghĩa gì ?
Nói "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng" là thừa nhận tính chất đa nguyên của mọi sự vật, của mọi lãnh vực.
Trong xã hội loài người gồm nhiều màu da, sắc tộc ở nhiều nước khác nhau trên nhiều Châu và đại dương khác nhau (Châu Á, Châu Ấu, Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Úc; Thái bình dương, Đại tây dương, Ần độ dương, Bắc băng dương); và trong một nước cũng có nhiều dân tộc, sắc tộc, nhiều tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán khác nhau: nhiều giai cấp, giai tầng, tôn giáo tín ngưỡng khác nhau và nhiều Đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau.
Vậy tại sao ở Việt Nam cũng có nhiều dân tộc, nhiều giai cấp, giai tầng, nhiều tín ngưỡng tôn giáo, nhiều trình độ học vấn và môi trường đào tạo khác nhau,...lại chỉ được quyền tồn tại một quan điểm, một tư tưởng, một Đảng thôi ?
Trong khi đó ở khắp thế giới - 5 châu, 4 biển - đâu đâu cũng thấy có sự tồn tại và phát triển của nền chính trị đa nguyên, dân chủ đa đảng (ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Canada, Ần độ, Ang-giê-ri, Nam Triều Tiên, Thái Lan, Nam Phi, các nước Bắc Ấu, Châu Mỹ la-tinh,...), đặc biệt ở Cam-pu-chia - nước láng giềng mà Việt Nam với tinh thần "quốc tế vô sản" đã hy sinh biết bao xương máu tại đây để giúp bạn "bảo vệ độc lập" và "xây dựng chủ nghĩa xã hội" - vào cuối năm 1991 đã tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa xã hội, từ bỏ chủ nghĩa độc nguyên - độc quyền lãnh đạo của Đảng - biến Đảng nhân dân cách mạng Cam-pu-chia (tức đảng cộng sản) thành đảng của nhân dân Cam-pu-chia; chủ trương thi hành chính sách hoà giải, hoà hợp dân tộc, chấm dứt chiến tranh, thực hiện hoà bình, thi hành chính sách dân chủ - đa nguyên, đa đảng và xây dựng một nền kinh tế thị trường sống động (kinh tế tư bản) ở Cam-pu-chia.
H. Người bảo vệ độc tài trở thành người bảo vệ đa nguyên.
Nhưng một thực tế trớ trêu khác lại đồng thời diễn ra trên thế giới ngày nay: những người cộng sản trong Đảng cộng sản Liên Xô (cũ) và các Đảng cộng sản Đông Ấu (cũ), nếu trước đây họ tán thành và ra sức bảo vệ chủ nghĩa độc nguyên, độc tài vô sản, độc tài của Đảng cộng sản - chống quyết liệt chủ nghĩa đa nguyên chính trị (dân chủ đa đảng), chống việc hình thành lực lượng đối lập trong chánh quyền Xô Viết, xã hội chủ nghĩa thì ngày nay, sau khi Liên Bang Xô Viết và Đảng cộng sản Liên Xô (cũ), các nước xã hội chủ nghĩa và các đảng cầm quyền ở Đông Ấu (cũ) tan rã, những người cộng sản nói trên lại nhiệt liệt hoan nghinh và ra sức bảo vệ chủ nghĩa đa nguyên chính trị vì chính họ phải được tiếp tục tồn tại trên cơ sở môi trường mới này. Do đó, hiện nay, khoảng 20 triệu Đảng viên của Đảng cộng sản Liên Xô (cũ) đang tích cực tham gia không phải một Đảng mà tham gia vào hàng trăm Đảng phái và tổ chức chính trị khác nhau trong đó đa số có khuynh hướng mác-xít ở các nước cộng hoà thuộc Liên Xô (cũ) kể cả nước Nga, do họ có nhiều quan điểm, tư tưởng bất đồng, không dễ dàng thống nhất được, nhưng tất cả họ đều nổ lực hoạt động để trở thành lực lượng đối lập với chính quyền hiện hữu để góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển toàn diện đất nước và xã hội. Điều đó xác nhận rằng việc họ bảo vệ chủ nghĩa độc nguyên, độc tài của Đảng cộng sản trước đây, chẳng qua vì họ phải chịu một áp lực quá nặng nề của Đảng cộng sản Liên Xô và các Đảng cộng sản Đông Ấu (cũ). Họ là "tù binh", là nô lệ về tư tưởng trong chế độ Xô Viết, xã hội chủ nghĩa mà họ không hề biết. Nhưng chính thực tiễn cuộc sống ngày nay đã làm thay đổi sâu xa nhận thức của họ về quyền con người, về dân chủ tự do và độc tài chuyên chế, về động lực thúc đẩy xã hội đi đến phồn vinh, ấm no, hạnh phúc, văn minh hiện đại và giúp họ tránh được mù quáng trong niềm tin.
I. Giữa thay đổi chính trị và thay đổi kinh tế có sự khác biệt lớn
Tuy nhiên đối với các nước cộng hoà Liên Xô cũ và các nước Đông Ấu cũ hiện nay, điều quan trọng là không nên lẫn lộn giữa sự thay đổi của cục diện chính trị và sự thay đổi của cũc diện kinh tế. Hai lĩnh vực này hoàn toàn khác nhau và mỗi lĩnh vực có qui luật vận động riêng của nó, tuy nó có liên quan chặt chẽ và tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Thay đổi cục diện chính trị của một nước có khi chỉ diễn ra trong một vài năm thậm chí năm, ba tháng; còn thay đổi cục diện kinh tế của một đất nước sẽ khó khăn gấp trăm lần.
Từ chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường (kinh tế tư bản chủ nghĩa) - tự quay 180 độ - các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ và các nước thuộc Đông Ấu cũ nếu không đòi hỏi 70-80 năm thì ít nhất cũng phải mất 20-30 năm để đạt sự phồn vinh, giàu có, ấm no hạnh phúc, văn minh hiện đại. Nếu bằng tình cảm và ước vọng, thiếu căn cứ khoa học, người ta định áp đặt thời gian để xây dựng nền kinh tế thị trường đạt tới trình độ phát triển cao của thế giới ngày nay chỉ trong thời hạn 5-7 năm. Đó là điều ảo tưởng nếu không nói là "bốc đồng".
K. Chế độ Phát-Xít: không hề có đa nguyên đa đảng
Như trên đã nói, Đảng cộng sản Việt Nam phát động chống đa nguyên, đa đảng là chống lại sự nghiệp dân chủ tự do của dân tộc Việt Nam, chống lại văn minh tiến bộ của đất nước tức muốn kiềm hãm dân tộc Việt Nam trong mê muội tối tăm, mù quáng. Bởi vì không có một nước nào trên thế giới có một chế độ đa nguyên, đa đảng mà lại không có một nền dân chủ rộng lớn. Đa nguyên, đa đảng gắn liền với dân chủ tự do là nền tảng đã sản sinh ra đa nguyên đa đảng. Chỉ có ở những nước chuyên chế độc tài, phát xít tàn bạo thì không bao giờ có sự tồn tại của đa nguyên đa đảng.
Bằng chuyên chế độc tài được sơn phết bóng loáng, Đảng cộng sản Việt Nam quyết chống lại các quyền dân chủ tự do của nhân dân quần chúng, nhưng lại không dám nói thẳng điều đó mà phải mượn cái chiêu bài "chống đa nguyên, đa đảng"; vì nếu tuyên bố thẳng thừng rằng: Đảng cộng sản Việt Nam không chấp nhận mà bác bỏ dân chủ tự do, hoá ra Đảng đã tự phơi trần bản chất độc tài, phản dân chủ của mình trước nhân dân cả nước và thế giới sao ?
Chiêu bài "chống đa nguyên, đa đảng" có thể lường gạt được những kẻ nhẹ dạ, yếu bóng vía, kém hiểu biết, mù quáng; ngoài ra nó không thể lừa gạt được ai.
Để chống lại dân chủ tự do của nhân dân có hiệu lực, ngoài việc kêu gọi "chống đa nguyên, đa đảng", Đảng cộng sản Việt nam còn phát động trong nội bộ Đảng và ngoài quần chúng đấu tranh "chống tư tưởng tự do tư sản hoá", "chống diễn biến hoà bình".
L. Tư tưởng "Tự Do Tư Sản Hoá" là gì ? - Tư tưởng muốn có tự do 100%
Tư tưởng "tự do tư sản hoá" là tư tưởng của nhiều người Việt Nam muốn ở nước mình có một nền dân chủ thực sự như ở các nước tư bản tiên tiến phương Tây để thay thế nền dân chủ giả hiệu của Việt Nam hiện nay - dân chủ trên lời nói, dân chủ hình thức. Hiến pháp của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn có ghi đủ các quyền tự do của công dân như: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do mít tinh, tự do biểu tình,...nhưng trên thực tế thì không hề có những thứ tự do đó. Bởi vì bộ máy kềm kẹp, kiểm soát chặt chẽ của Đảng cộng sản và chánh quyền, kể cả các cơ quan thông tin tuyên truyền (quốc doanh) đều làm cho đông đảo quần chúng ngán ngại, không dám hành động để đạt được các quyền tự do dân chủ nói trên của mình. Vì vậy, đối với các quyền dân chủ tự do của công dân, hiến pháp chỉ là một mãnh giấy lộn, không có giá trị thực tiễn gì cả. Nhưng điều đáng kinh ngạc là trước tình hình vi phạm nghiêm trọng các quyền dân chủ tự do của công dân trong nhiều năm qua và cho đến bây giờ, không hề có sự lên tiếng đấu tranh phản đối của Quốc hội - được coi là "cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất" hoặc Quốc hội chất vấn chính phủ về những vi phạm ấy và đề ra những biện pháp cụ thể nhằm thực hiện nghiêm chỉnh các quyền dân chủ tự do của công dân đã ghi trong hiến pháp.
Vì sự độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản nên Quốc hội chỉ biết làm theo chỉ thị của Đảng. Vả lại, hầu hết đại biểu quốc hội là cán bộ đảng viên của đảng, do đó trước khi khai mạc quốc hội, những đảng viên, cán bộ ấy được một đại diện của bộ chính trị đến để huấn thị là Quốc hội cần phải làm như thế này, như thế này...Số người ngoài Đảng trong Quốc hội không đáng kể, hơn nữa, nếu có thì chính họ cũng đã được đảng hoá (mác-xít hoá) mất rồi.
Cho nên có thể nói: Quốc hội là Đảng, Đảng là Quốc hội - Nhà nước là Đảng, Đảng là Nhà nước. Với tính chất ấy đại biểu Quốc hội không phải là người nói tiếng nói trung thực của nhân dân (cử tri) mà chính là người chỉ nói tiếng nói của Đảng thôi.
Do đó, Đảng cộng sản Việt Nam cũng như các đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại (Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên) đều rất sợ "tự do tư sản hoá" - thứ tự do đúng nghĩa của nó 100% tức là các quyền dân chủ tự do của công dân như: tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội, lập đảng phái, tự do đình công, biểu tình,...đã ghi trong Hiếp Pháp đều được thể hiện đầy đủ trong thực tiễn sinh động của xã hội. Vì vậy khi quần chúng nhân dân có các quyền dân chủ tự do - thứ vũ khí tự vệ và tấn công rất sắc bén - thì bất cứ đảng phái cầm quyền nào không thể dễ dàng thực hiện chuyên chế độc tài, đặc quyền, đặc lợi, áp bức, trù dập quần chúng nhân dân được. Cụ thể là: Khi quyền lợi bị vi phạm và trước những bất công, hàng ngàn, hàng vạn, hàng chục vạn thậm chí hàng triệu người bao gồm các tầng lớp nhân dân: nhân sĩ trí thức, thầy cô giáo, ý tá bác sĩ, công nhân lái xe, bốc vác, thợ mỏ, công nhân đường sắt, cơ khí, luyện kim, đóng tàu,...viên chức ngành hàng không, bưu điện viễn thông, sinh viên, học sinh, nông dân trang trại ở các nước: Anh, Pháo, Mỹ, Đức, Ý, Nhựt, Ần độ, Bra-xin, Nam Triều Tiên, Thái Lan,...đã vùng lên đấu tranh liên tục bằng các hình thức: đính công, tổng đình công, bãi khoá, tổng bãi khoá thậm chí xuống đường biểu tình đói tăng lương, cải thiện điều kiện lao động và đời sống, đói tăng ngân sách giáo dục, y tế, đòi bảo đảm tiếp tục tài trợ cho nông nghiệp, bảo vệ nông sản trong nước, đòi Quốc hội cách chức và đưa Tổng Thống ra xét xử (Bra-xin) vì có dính líu đến tham nhũng nghiêm trọng; biểu tình phản đối phiên toà xét xử bất công (vụ 4 cảnh sát da trắng đánh chết một lái xe da đen ở LosAngeles - 1992); biểu tình hoan hô các quan toà có sáng kiến phát động mạnh mẽ phong trào chống tham nhũng - "Bàn tay trong sạch" - trong cả nước (Ý); và cả những cuộc biểu tình chống quân phiệt, độc tài, đòi dân chủ tự do bị đàn áp dữ dội (ở Thái Lan tháng 5/1992)..v..v..Tất nhiên, trước sức đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, chính quyền các nước có liên quan phải nhượng bộ và giải quyết thỏa đáng các yêu sách của quần chúng.
Ở các nước dân chủ, người được bầu làm tổng thống, thủ tướng là người được đa số nhân dân tín nhiệm trong việc điểu khiển đất nước theo một nhiệm kỳ nhất định. Tuy nhiên người ta không coi những vị ấy là những ông thánh sống. Do đó, họ tự đặt cho mình có nhiệm vụ giám sát những hoạt động của tổng thống, thủ tướng và trong từng lúc họ đều có phản ứng kịp thời.
Những cuộc thăm dó dư luận thường xuyên ở các nước dân chủ là cách tốt nhất cho mọi người dân biết rõ từng lúc vị tổng thống, thủ tướng nào cón giữ được sự tín nhiệm của nhân dân hay sự tín nhiệm ấy đã bị giảm sút nhiều (với tỷ lệ phần trăm rất cụ thể) thậm chí tín nhiệm không còn. Có như vậy tổng thống và thủ tướng mới biết rõ mình hiện giờ ra sao trước con mắt giám sát của đông đảo quần chúng nhân dân để phấn đấu, tiếp tục vươn lên phía trước hoặc để khắc phục những sai lầm thiếu sót về đạo đức, tác phong và tinh thần trách nhiệm của mình.
Chớ không phải như ở Việt Nam, một vài ông Uỷ viên bộ chính trị đồng thời là thành viên của Hội đồng bộ trưởng (từ năm 1990 trở về trước) có vợ đi buôn lậu, dựa vào thế lực của chồng tha hồ sử dụng các phương tiện giao thông của nhà nước như máy bay, ô-tô,... cho hoạt động vụ lợi bất chính của mình suốt hàng chục năm mà vẫn bình yên vô sự; cũng như có ông đã biến công việc của nhà nước thành công việc riêng của gia đình mình, tha hồ hoạt động kiếm đô la (ở nước ngoài) một cách dễ dàng suốt trên hai thập kỷ mà vẫn phơi phới vững như bàn thạch: trong khi cả xã hội từ Bắc chí Nam, nhân dân, đặc biệt là công nhân viên chức, gia đình cán bộ bàn tán xôn xao tình hình nói trên. Nhưng tuyệt đối không hề được các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình (tất cả là của Đảng và nhà nước) nêu lên. Hơn nữa cơ quan lãnh đạo của Đảng cũng không hề tỏ rõ thái độ của mình một cách công khai trước nhân dân cả nước đối với tình hình suy thoái nghiêm trọng nói trên ngay tại cơ quan đầu não mà vẫn cứ coi như trong lãnh đạo không có việc gì xảy ra và rất êm thắm. Rõ ràng, đây là một sự bao che đầy quyền lực đối với những hành vi tiêu cực kéo dài ở tận chóp bu.
Ở Việt Nam tham nhũng đã trở thành quốc nạn, nhưng Việt Nam lại là nước không có dân chủ tự do - dân không có quyền - thì làm sao chống tham nhũng có hiệu quả? Cho nên, điều trớ trêu thường xuất hiện là người hô hào chống tham nhũng chính lại là kẻ tham nhũng rất tệ hại.
Tất cả tình hình nói trên cho thấy dân chủ tự do là rất bức bách đối với mọi dân tộc, là vũ khí sắc bén được nhân dân sử dụng để thực hiện quyền làm chủ thực sự của mình đối với đất nước, xã hội; chớ không phải như ở Việt nam, "làm chủ" chỉ là khẩu hiệu suông, trống rỗng vì nhân dân không hề có quyền dân chủ tự do thật sự bao giờ.
Phải dám nhìn thẳng vào sự thật và không được quyền bóp méo nó qua cặp kính "ý thức hệ mác-xít"; chúng ta phải thừa nhận rằng dân chủ tư sản (dân chủ ở các nước tư bản) là chế độ dân chủ thực sự được xây dựng hơn hai thế kỷ qua bằng cuộc đấu tranh trường kỳ bền bỉ thậm chí đổ máu của nhân dân các nước, chớ dân chủ không hề là một thứ đặc ân của giai cấp thống trị.
Chúng ta đều biết ở nhiều nước tư bản đã từng trải qua những thời kỳ mà chế độ độc tài phát-xít được thiết lập; đồng thời nền dân chủ tự do ở đây bị thủ tiêu như: chế độ Phát-xít Hittle ở Đức, Mussolini ở Ý, Thiên Hoàng ở Nhật, Franco ở Tây Ban Nha, Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc (trước 1949), Lý Thừa Vãng ở Nam Triều Tiên, Ngô Đình Diệm ở Miền Nam Việt Nam, Pinochet ở Chi Lê,..v.v...
Do đó, nhân dân các nước nói trên không thể không vùng lên đấu tranh quyết liệt kể cả đổ xương, đổ máu để giành giựt lấy nó, bảo vệ và phát triển nền dân chủ tự do của mình.
M. Dân chủ tự do phải trả giá
Dân chủ tự do là một sự nghiệp cách mạng lớn lao nên không thể không có hy sinh, và chính nền dân chủ phải trả giá đắt ấy là nền dân chủ thật sự, chân chính.
Cuộc đấu tranh vì dân chủ tự do của nhân dân Trung Quốc ở Thiên An Môn (Bắc Kinh) hồi tháng 05 và tháng 06/1987 và của nhân dân Thái Lan, Nam Phi gần đây (1992), bất chấp súng đạn, xe tăng của bọn phát xít diệt chủng, bọn phân biệt chủng tộc đã nói lên tình chất quyết liệt, đầy hy sinh gian khổ của cuộc đấu tranh vì dân chủ tự do.
Còn dân chủ do lãnh đạo ban cho - dân chủ không phải trả giá gì cả - là thứ "dân chủ giả hiệu" nhằm đánh lừa thiên hạ và để tạo ra trong xã hội nhiều thứ bù nhìn, nhiều kẻ nịnh bợ và bọn tham nhũng mà thôi.
Nói tóm lại, Đảng cộng sản Việt Nam phát động "chống đa nguyên, đa đảng", "chống tự do tư sản hoá", "chống diễn biến hoà bình" (tức chống phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ), chống đàn áp, khủng bố, chống tham nhũng của quần chúng bằng báo chí, hội thảo, mít tinh, biểu tình, đình công - đấu tranh ôn hoà, không có võ trang - là đi ngược dòng lịch sử, không tuân thủ qui luật phát triển khách quan của xã hội, đã ra mặt độc tài chống lại yêu cầu, nguyện vọng về dân chủ tự do của quần chúng nhân dân, của dân tộc.
N. Chuyên chế độc tài: thách thức nghiêm trọng đối với dân tộc Việt Nam
Chính Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay đã biến mình trở thành một cản ngại lớn trên con đường phát triển đi đến văn minh của dân tộc Việt Nam, bất chấp sự phản kháng của quần chúng, quyết duy trì chuyên chế, độc tài, dựa vào bạo lực (quân đội, công an) như tất cả các chế độ độc tài trên thế giới để chà đạp lên nguyện vọng về dân chủ tự do của nhân dân và gây cho nhân dân biết bao tai hoạ khác. Nhưng những bài học của lịch sử luôn luôn sáng ngời: tất cả các thế lực độc tài, phát xít tàn bạo trên thế giới đều bị phủ định bởi sức mạnh áp đảo của nhân dân. Cuộc đấu tranh anh hùng đã đánh bại bọn độc tài quân phiệt khát máu của nhân dân Thái Lan hồi tháng 5/1992 vừa qua là một tấm gương sáng chói cho các dân tộc trên thế giới kể cả dân tộc Việt Nam.
Không phải đi ăn xin mà có dân chủ tự do được. Muốn có nó phải dám đấu tranh ngoan cường, bền bỉ, trừ phi cam tâm làm nô lệ.
Cả thế giới đều biết rằng quá trình kháng chiến giành độc lập dân tộc cũng là quá trình đấu tranh chống độc tài chuyên chế, phát xít tàn bạo, giành dân chủ tự do của nhân dân Việt Nam. Do đó sau thắng lợi của cách mạng (hơn 30 năm liên tục đấu tranh chính trị và võ trang), Đảng cộng sản Việt Nam lại thiếp lập, duy trì, củng cố chế độ chuyên chế, độc tài ở Việt Nam; đó là sự thách thức rất nghiêm trọng của Đảng cộng sản đối với nhân dân Việt Nam. Về những thách thức tương tự đó, trên thế giới đã có nhiều bài học:
Chính vì dựa vào bạo lực để tồn tại mà chính quyền mác-xít - chuyên chế độc tài phủ định tất cả ý kiến, quan điểm đối lập, lực lượng đối lập - ở Áp-ga-ni-xtan và Ê-ti-ô-pi đã gây ra cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài ở hai nước này dẫn đến hậu qủa cuối cùng là lực lượng võ trang của các đảng phái đối lập đã tấn công đến sào huyệt (thủ đô) của chánh quyền mác-xít độc tài ở hai nước nói trên và đã chiến thắng. Tổng thống mác-xít Áp-ga-ni-xtan - Na-gi-pu-la phải chạy vào cơ quan Liên Hiệp Quốc tại Ca-bun (thủ đô) để ẩn náu; còn Tổng thống mác-xít Ê-ti-ô-pi - M.H. Mariam thì chạy trốn sang phương Tây.
Rõ ràng, số phận bi đát luôn luôn dành sẵn cho bọn ngoan cố độc tài, tham quyền cố vị, đi ngược qui luật tiến hoá của lịch sử.
Nhìn theo vhiều dài của lịch sử, khác với sự đắc chí kiêu ngạo, không biết giựt mình và tự sám hối của Đảng cộng sản Việt Nam, người ta không thể không kinh ngạc khi biết rằng chính chuyên chính độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam đã gây nên biết bao thảm hoạ, tội ác đối với nhân dân Việt Nam suốt một quá trình cách mạng lâu dài của đất nước, dân tộc.
Khi cầm quyền, Đảng cộng sản Việt Nam coi công an, quân đội là công cụ riêng của Đảng dùng để đàn áp những ai có ý kiến, quan điểm khác với Đảng, được xem là "chống Đảng, chống cộng sản". Chớ công an, quân đội không phải là công cụ của chánh quyền cách mạng - chánh quyền của dân, vì dân, do dân.
O. Ý thức hệ cộng sản dẫn đến các cuộc đàn áp tôn giáo
Với ý thức hệ Mác-xít: duy vật chống duy tâm, vô thần chống hữu thần, Đảng cộng sản Việt Nam đã thi hành chánh sách khống chế, kềm kẹp thậm chí khủng bố đàn áp đẫm máu đối với các tôn giáo ở Việt Nam như : Cao Đài, Hoà Hảo, Công Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Phật Giáo,... với lý do tôn giáo là "hữu thần chống vô thần', "chống cộng sản", là những kẻ "phản động", "làm tay sai cho đế quốc". Bằng lực lượng võ trang nắm trong tay, Đảng cộng sản Việt Nam đã tiến hành những cuộc tảo thanh Cao Đài, Hoà Hảo tức tấn công, giết hại hàng loạt tín đồ và hàng giáo phẩm của hai đạo này trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp xâm lược (1945,46,47,48,49). Đối tượng tảo thanh lúc bấy giờ ở Miền Đông Nam bộ bao gồm các tỉnh: Tây Ninh, Gia Định (nay là TP Hồ Chí Minh), Thủ dầu một (Sông Bé), Biên Hoà (Đồng Nai), Bà Rịa (Bà Rịa-Vũng tàu), Chợ Lớn (Long An) là đồng bào tín đồ Cao Đài. Còn đối tượng tảo thanh ở Miền tây Nam Bộ bao gồm các tỉnh: Long Xuyên, Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang), Tạch Giá (Kiên Giang), Bạc Liêu (Minh Hải), Cần Thơ,...là đồng bào tín đồ Hoà Hảo.
Mặt trận liên quân B - mặt trận tảo thanh Cao Đài - ở Miền Đông Nam Bộ được thành lập (1946) với các lực lượng võ trang bao gồm các cho đội: 12, 13, 15, 22, 6, bộ đội Hoàng Thọ...lấy toà thánh Tây Ninh - trung tâm đầu não của lực lượng Cao Đài - làm mục tiêu tấn công. Chiến trận diễn ra ác liệt năm này sang năm nọ giữa lực lượng võ trang nói trên của Đảng cộng sản Việt Nam và lực lượng võ trang cao Đài có sự yểm trợ của quân đội Pháp; đồng thời cũng diễn ra các cuộc "tảo thanh" tín đồ Cao Đài ở khắp các ấp, xã thuộc các tỉnh Miền Đông Nam Bộ như: Tây Ninh, Gia Định (TP HCM), Thủ Dầu Một (Sông bé)...
Bằng cách tập hợp đồng bào đi phá hoại đường để bảo vệ vùng giải phóng thuộc Củ Chi - gọi là "khu 5" - Ban chỉ huy ra lịnh: ai có đạo đứng một bên, ai không có đạo đứng một bên; ai có đạo ở lại, ai không có đạo đi phá đường. Do vậy, hàng trăm người có đạo - toàn là tín đồ Cao Đài gồm nam, nữ, ông già, bà cả, thanh niên, trung niên - được điều động đến mé rừng rậm. Sau đó nhiều loạt súng liên thanh nổ liên tiếp với tiếng người kêu la gào thét kinh khủng. Thế là số phận bi thảm của đồng bào Cao Đài nói trên đã kết liễu. Thi hài của họ được vùi dập xuống các hầm đào sẵn ở rừng Làng và Sở cao su Me-sắc (thuộc xã Phú Mỹ Hưng, Củ Chi). Vào năm 1950, người ta đã phát hiện ở rừng Bời Lời (Trảng Bàng - Tây Ninh) có 5-7 hầm toàn sọ người. Hay như ở xã Vĩnh Lộc (thuộc Gò Vấp, Gia Định cũ), về sau này, hàng năm đều có ngày giỗ thống nhứt - giỗ những đồng bào tín đồ Cao Đài trong xã, ấp bị giết hàng loạt cùng một ngày bới các cuộc tảo thanh tàn bạo nói trên của Đảng cộng sản Việt Nam.
Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và 20 năm kháng chiến chống Mỹ xâm lược (1955-1975) bao gồm cả thời kỳ đất nước chia cắt thành 2 miền: Nam, Bắc (miền Bắc xã hội chủ nghĩa, miền Nam thuộc địa củ Mỹ), đồng bào tín đồ Công Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành ở miền bắc xã hội chủ nghĩa là đối tượng đàn áp quyết liệt của chánh quyền cộng sản; đặc biệt lúc Hiệp định đình chiến Giơ-ne-vơ (tháng 07/1954) qui định chia cắt tạm thời đất nước thành hai miền, được ký kết thì lập tức có hai triệu đồng bào tín đồ Công Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành ồ ạt di cư vào Nam sinh sống và để thoát khỏi "tai hoạ cộng sản". Do đó, đối với số đồng bào và hàng giáo phẩm của các tôn giáo nói trên còn ở lại miền Bắc xã hội chủ nghĩa suốt 20 năm (1955-1975) qủa là rất nặng nề, không khác gì cuộc sống ở một trại giam lớn.
Phật giáo Việt Nam với truyền thống yêu nước là tôn giáo có nhiều cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, chống độc tài, tham nhũng, đòi dân chủ tự do và hoà bình (đặc biệt ở Miền Nam Việt Nam) trong suốt thời kỳ Đế quốc Mỹ và tay sai thống trị. Nhưng sau khi Miền nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Phật Giáo lại trở thành đối tượng kềm kẹp, khống chế, trấn áp của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhiều người thuộc hàng giáo phẩm và tín đồ phật giáo bị qui chụp là "phản động", "chống cách mạng" và bị bắt bớ, giam cầm, quản thúc chỉ vì họ muốn được tự do trong cuộc sống, tự do tín ngưỡng, hành đạo, tự do nói lên quan điểm tư tưởng riêng của mình.
Với "ý thức hệ mác-xít, lập trường giai cấp vô sản", Đảng cộng sản Việt nam không những đố kỵ và áp bức các tôn giáo mà còn đố kỵ áp bức các dân tộc ít người: dân tộc người Hoa, người Khơ-me và nhiều sắc tộc khác.
Vào những năm 1956-1957, sau sai lầm cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức - chiến dịch tấn công vào nhân dân, nông dân và bản thân nội bộ Đảng - với chuyên chính độc tài dựa vào bạo lực, Đảng cộng sản Việt Nam lại lao vào tội lỗi khác là đàn áp, bắt bớ, tù đày hàng chục năm một số trí thức, văn nghệ sĩ, cán bộ đảng viên dám phát biểu ý kiến, quan điểm của mình, phê phán những sai trái trong sự lãnh đạo của Đảng cộng sản bằng văn học, nghệ thuật, bằng bài nói, bài viết của bản thân. "Vụ án nhân văn giai phẩm" 1956-1957 chính là sự đàn áp của Đảng cộng sản Việt Nam đối với những ai có quan điểm, tư tưởng khác với Đảng. Những văn nghệ sĩ, trí thức, cán bộ đảng viên có liên quan đến vụ án khi vào tù tuổi còn thanh xuân, nhưng đến khi ra tù thì tóc đã bạc phơ, già yếu. Rõ ràng, đối với Đảng cộng sản Việt Nam thấm nhuần ý thức hệ Mác-Lênin, ai ai cũng dễ dàng bị qui chụp là "kẻ chống Đảng, kẻ thù của Đảng" và tất nhiên, điều đó không thể không dẫn đến hậu qủa là ai ai cũng coi Đảng cộng sản Việt Nam là kẻ thù của chính họ.
P. Trong chiến tranh: rất hiếm cấp tướng hy sinh; trong hoà bình: đại tướng, trung tướng hy sinh dễ dàng. Do đâu ?
Điều đặc biệt quan trọng xảy ra trước và sau Đại hội lần thứ 6 của Đảng cộng sản VN (tháng 12/1986) là một loạt cấp tướng ( đại tướng, trung tướng) bị giết hại một cách bí mật và nhiều câu hỏi được đặt ra trong dư luận xã hội lúc bấy giờ, nhất là ở Thủ đô Hà Nội: kẻ sát nhân là kẻ nào ? bàn tay bí mật giết người từ đâu ? Bởi vì, chỉ trong một thời gian rất ngắn, liên tiếp cá hai đại tướng: Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn cùng ở vào một tình huống giống nhau - chuẩn bị nhận chức vụ mới (Bộ trưởng Quốc phòng) - cũng đều bị chết bất ngờ (ngộ độc). Trường hợp của Đại tướng Hoàng Văn Thái trước khi trút hơi thở cuối cùng đã nói với vợ ông rằng: "Người ta đã giết tôi", và vợ ông trước những người đến viếng thăm đã khóc thê thảm và kêu to lên rằng: "Người ta đã giết chồng tôi". Cái chết đột ngột của Đại tướng Lê Trọng Tấn cũng tương tự như trên (theo lời kể tỉ mỉ của hai vợ chồng ông Trung tướng đương chức ở Hà Nội - năm 1987).
Dĩ nhiên trước đó không lâu, một Đại hội đảng bộ toàn quân đã diễn ra trong bầu không khí căng thẳng của cuộc đấu tranh nội bộ chưa từng có đưa đến kết quả là hai uỷ viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt nam: Đại tướng Văn Tiến Dũng - Bộ trưởng quốc phòng và Đại tướng Chu Huy Mân - phó bí thư quân uỷ trung ương, đều thất cử, không được bầu vào cấp uỷ Đảng và đoàn đại biểu Đảng bộ toàn quân đi dự đại hội lần thứ 6 của Đảng cộng sản Việt Nam. Do đó, Đại tướng Hoàng Văn Thái được trung ương chỉ định làm Bộ trưởng Quốc phòng thay thế Văn Tiến Dũng (bị mất tín nhiệm nhiều) không may bị chết bất đắt kỳ tử và người được chỉ định lên thay ông là Đại tướng Lê Trọng Tấn, cũng chịu số phận bi thảm liền sau đó. Thật khủng khiếp và đáng kinh ngạc.
Sau 2 sự kiện đau buồn nói trên (tức sau đại hội 6 ĐCSVN) khoảng mấy tháng lại có thêm hai trung tướng: Đinh Đức Thiện và Trần Bình bị giết hại. Theo tin loan truyền thì Trung tướng Đinh Đức Thiện bị tai nạn ô tô mà chết, còn dư luận xã hội, kể cả gia đình, cán bộ quân sự thì cho rằng ông Đinh Đức Thiện không bị tai nạn ô tô mà bị bắn chết tại rừng Cúc Phương (Ninh Bình) khi ông đi săn thú. Dư luận còn nhấn mạnh: Ông Thiện chắc chắn bị một người bà con có quyền thế sát hại. Còn Trung tướng Trần Bình - Cục trưởng cục tình báo quân đội nhân dân Việt Nam bị bắn chết ngay trên đường phố thuộc quận 3 - thành phố Hồ Chí Minh; và sau đó độ mấy ngày, người con trai của ông cũng bị bắn chết tại khu vực nói trên.
Trước những sự kiện nghiêm trọng đó của đất nước, dư luận xã hội rất xôn xao, ầm ỉ; còn các cơ quan thông tin đại chúng: báo chí, đài phát thanh,... thì im hơi lặng tiếng, kể cả báo "Quân đội", "Hội cựu chiến binh Việt Nam" là cơ quan tổ chức có mối liên hệ trực tiếp với các nạn nhân nói trên. Bởi vì sự độc quyền lãnh đạo - độc tài - của Đảng cộng sản Việt Nam đòi hỏi tất cả phải được giữ kín, không được bình luận, bàn tán ồn ào. Tuy nhiên, áp lực đó không ngăn cản nổi sự quan tâm bức xúc của dư luận xã hội đi đến khẳng định rằng những sự kiện kể trên (2 uỷ viên bộ chính trị bị đánh rớt khỏi cương vị lãnh đạo và 2 đại tướng bị chết đột ngột, 2 trung tướng bị sát hại) là những sự kiện rất nghiêm trọng, chưa từng có trong lịch sử quân đội và ĐCSVN; nó có quan hệ hữu cơ bắt nguồn từ những mâu thuẩn sâu sắc trong nội bộ Đảng, toàn quân ở độ chín muồi dẫn đến làm nổ tung các mặt trong cuộc sống và hoạt động ít nhất ở một bộ phận đầu não của quân đội Việt Nam.
Sở dĩ không có thông tin đầy đủ và không thể có sự phân tích sâu sắc, công khai các sự kiện nói trên nhằm vạch trần bộ mặt của những tên khát máu, giết người trước ánh sáng dư luận là do trong thực tiễn ở Việt Nam không hề có dân chủ tự do (tự do ngôn luận, tự do báo chí,...); nó chỉ có trên giấy trắng mực đen (bản hiến pháp) thôi.
Sự độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được ghi trong Hiếp Pháp nước CHXHCN Việt Nam đã đặt Đảng cộng sản đứng trên Quốc Hội và Hiến Pháp, cho phép Đảng phủ định các quyền tự do ấy của công dân trong thực tiễn và tự do chà đạp Hiến Pháp được xây dựng lên bằng xương máu của nhân dân Việt Nam; vô hiệu hoá Quốc Hội, biến Quốc Hội thành một tổ chức bù nhìn, thành bộ máy bỏ phiếu cho Đảng cộng sản. Nhìn chung, các cơ quan, tổ chức khác như: chánh phủ, toà án, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng chỉ là công cụ, tay sai của Đảng mà thôi (bất cứ việc xét xử nào của toà án ở từng cấp đều phải làm đúng theo sự xét xử trước đó của cấp uỷ Đảng tức tuyên án công khai đúng như cấp uỷ Đảng đã tuyên án trước trong nội bộ).
Gần đây, điều đáng chú ý là nhà nước Việt Nam đã quan tâm nhiều hơn đến vấn đề người Việt Nam ở nước ngoài. Do đó, tại Hội nghị Việt kiều hồi tháng 2/1993, Thủ Tướng Võ Văn Kiệt - trước hàng trăm đại biểu đại diện cho khoảng 2 triệu người Việt kiều cư ngụ ở 70 nước trên thế giới mà đa số tập trung ở các nước tư bản phát triển nhất (G7 - nhóm các nước giàu), trong đó có trên 300.000 ngàn trí thức có trình độ đại học và trên đại học - đã nhấn mạnh: "Đoàn kết hoà hợp dân tộc là động lực phát triển đất nước".
Q. Trên cơ sở dân chủ bình đẳng, thực hiện hoà giải hoà hợp dân tộc
Rõ ràng lực lượng Việt kiều là tiềm lực lớn lao, là tài sản trí tuệ quí báu của dân tộc Việt Nam cần phải được phát huy cao độ vì sự phồn vinh, giàu có của Tổ quốc, vì ấm no hạnh phúc của nhân dân, vì một nước Việt Nam dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái, hiện đại, văn minh.
Vì vậy có vấn đề đặt ra là làm sao tạo được một môi trường tốt, phù hợp và bền vững cho đồng bào Việt kiều - những người đã từng sống và hoạt động ở môi trường tự do hoá về kinh tế và chính trị; môi trường của nền kinh tế thị trường (tư bản chủ nghĩa) và nền chính trị dân chủ, đa nguyên - tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Do đó, nhà nước Việt Nam không thể dừng lại ở việc ban hành một số chánh sách mang tính chất chiến thuật như: nhập cảnh, cư trú, đi lại, hoạt động kiều hối, xuất nhập khẩu, ngân hàng, tín dụng,... mà còn phải dám đi xa hơn nữa vào chiến lược lâu dài: cải cách kinh tế đi liền với cải cách chính trị, không những phải xây dựng một nền kinh tế thị trường và mở cửa mà còn phải xây dựng một nền chính trị đa nguyên - dân chủ - đa đảng. Đó là cơ sở, nền tảng vững chắc để thực hiện một cách đồng bộ, hài hoà, sự hoà giải, hoà hợp, đoàn kết dân tộc, tạo nên tính tự giác cao và tấm lòng hồ hởi, cởi mở của đông đảo đồng bào Việt kiều hướng về Tổ Quốc thân yêu, hội nhập thực sự với quê hương, dân tộc. Mặt khác, điều đó cũng nói lên rằng Việt Nam hội nhập vào thế giới, tiếp thu những giá trị của xã hội loài người không chỉ thuần túy về mặt kinh tế mà tiếp thu hoà nhập toàn diện (cả về kinh tế và chính trị). Sự hài hoà giữa môi trường thế giới (tự do hoá cả về kinh tế và chính trị) và môi trường trong nước (Việt Nam - tự do hoá không những về kinh tế mà cả về mặt chính trị) chắc chắn sẽ tạo ra sự an tâm phấn khởi không những trong đồng bào Việt kiều mà cả gần 70 triệu đồng bào trong nước (bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, nhiều sắc tộc, tôn giáo, nhiều khuynh hướng, quan điểm,...) khiến tất cả mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước đều cảm thấy bức bách phải dốc toàn lực tham gia xây dựng quê hương, Tổ quốc giàu mạnh, nhân dân ấm no, hạnh phúc.
Nếu Việt Nam chỉ mở cửa kinh tế và đóng kín cửa chính trị, chỉ đi có một chân (kinh tế), chớ không phải đi hai chân (kinh tế và chính trị) thì càng làm bộc lộ nổi cộm sự lạc hậu về chính trị của Việt Nam trước thế giới - lạc hậu không những so với các nước Châu Ấu, Châu Mỹ, Châu Á (kể cả các nước láng giềng như: Thái Lan, Cam-pu-chia) mà còn lạc hậu so với nhiều nước Châu Phi: An-giê-ri, Tu-ni-si, Ma-da-grát-xca, Nam Phi,...Tất nhiên cái gì lạc hậu, đi ngược qui luật tiến hoá thì chắc chắn sẽ bị đào thải, sụp đổ.
Hiện nay, không những 2 triệu đồng bào Việt kiều và gần 70 triệu đồng bào Việt Nam mà cả thế giới văn minh đều đòi hỏi Việt Nam phải cải cách toàn diện: cả kinh tế và chính trị. Đó là điều kiện không thể thiếu được cho sự hội nhập thực sự của Việt nam vào cộng đồng thế giới (tư bản chủ nghĩa) ngày nay; đồng thời đó cũng là điều kiện phải có để đồng bào Việt kiều, đồng bào cả nước hoà nhập thực sự với dân tộc, đất nước.
Chúng ta biết rằng: sở dĩ Trung Quốc đạt được những thành quả lớn lao suốt 14 năm cải cách kinh tế và mở cửa là nhờ có được một trong những yếu tố quan trọng - một đội ngũ chuyên gia giỏi từ các nước tiên tiến nhất: Mỹ, Nhật, Đức,...gồm khoảng 300-400 ngàn người cho một đất nước có khoảng 1,2 tỉ dân, có nghĩa là cứ khoảng 3000 người dân Trung Quốc thì có một chuyên gia giỏi nước ngoài phục vụ. Tất nhiên nhà nước Trung Quốc phải chi một số tiền thích đáng cho yêu cầu quan trọng nói trên. Trong khi đó, tại sao Việt Nam chúng ta với dân số 70 triệu người, lại không biết sử dụng trên 3000,000 trí thức Việt kiều của mình cũng gồm giáo sư, tiến sĩ, chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực cho lợi ích dân tộc mình ?
Đảng cộng sản Việt nam có dám làm một cuộc cách mạng về tư tưởng của bản thân mình, có dám "lột xác" không? có dám vứt bỏ ý thức hệ mác-xít giáo điều, lỗi thời không ? có dám vứt bỏ tư tưởng quan điểm, thành kiến cũ rích đối với đồng bào Việt kiều ("theo tư bản chủ nghĩa") không?
R. Hiện giờ, ai theo tư bản ?
Với đầu óc khách quan, dám nhìn thẳng vào thực tế, Đảng cộng sản Việt Nam phải thừa nhận rằng bằng chính sách đổi mới, hàng ngày, hàng giờ Việt Nam luôn luôn hướng về chủ nghĩa tư bản (Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Ý, Canada, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Thuỵ Điển, Ần Độ, Hồng Kông, Indonexia,...), chứ không phải hướng về Bắc Triều Tiên, Cuba của chủ nghĩa xã hội; có nghĩa là trên thực tế, Đảng cộng sản Việt Nam đã đồng hoá về quan điểm, tư tưởng với đồng bào Việt kiều đang sinh sống ở 70 nước tư bản chủ nghĩa trong nhiều thập kỷ qua. Từ thực tế đó cho thấy giữa Đảng cộng sản Việt Nam và đồng bào Việt kiều đã không còn tồn tại cơ sở của sự đối đầu, chia rẽ, ngăn cách nữa mà nó đang chuyển sang một cơ sở mới để đôi bênhoà nhập vào nhau; thật sự hoà giải và chân thành đoàn kết với nhau vì lợi ích tối cao của dân tộc, đất nước. Vì vậy, khi kêu gọi đồng bào Việt kiều: "xoá bỏ mặc cảm, xoá bỏ hận thù, hướng tới tương lai", Đảng cộng sản Việt Nam phải là người trước tiên thực hiện điều đó, mở rộng vòng tay để đoàn kết, hoà giải, hoà hợp dân tộc trên cơ sở thực sự dân chủ tự do và bình đẳng - hoà hợp có nội dung, có điều kiện chớ không thể là khẩu hiệu suông.
Thật là khó hiểu khi ở nước sở tại, đồng bào Việt kiều không những tự do hoạt động kinh tế mà còn tự do hoạt động chính trị, tự do tham gia các đảng phái, tổ chức chính trị, xã hội, tự do viết báo, hội thảo, mít tinh, biểu tình, tự do nói lên ý kiến, tư tưởng, quan điểm riêng của mình đối với mọi vấn đề trong xã hội; nhưng khi về nước mình (Việt Nam) thì có thể được tự do hoạt động kinh tế ở chừng mực nhất định nào đó; còn về chính trị thì hoàn toàn không có tự do kể cả phát biểu ý kiến, quan điểm riêng của mình có thể trái với lãnh đạo. Bởi vì, ở Việt Nam, những ý kiến, quan điểm của bất cứ người nào ngược với quan điểm lập trường của Đảng cộng sản Việt Nam thì nhất định sẽ bị lên án và bị trấn áp ngay do sự độc quyền lãnh đạo của Đảng tức nền chuyên chế độc tài đã được khẳng định ở đây từ hơn 60 năm qua (1930-1993).
Chuyên chế độc tài đã từng bị lịch sử lên án, hoàn toàn không hề là ước mơ, niềm hy vọng của nhân dân quần chúng và tất nhiên nó không có sức thuyết phục; nhưng tại sao lại dựa vào nó để thực hiện hoà giải, hoà hợp và đoàn kết dân tộc? Cơ sở cốt lõi của vấn đề phải là: dân chủ, tự do và bình đẳng thật sự. Vì vậy, chừng nào còn chưa thiết lập được nền dân chủ tự do đúng nghĩa của nó ở Việt nam thì chừng ấy vẫn chưa xoá được mặc cảm, thành kiến,... chưa có thể hoà giải, hoà hợp dân tộc được. Nếu chỉ bằng những khẩu hiệu suông hay bằng những chiến thuật kinh tế cụ thể thì sứ mạng hoà giải, hoà hợp và đoàn kết dân tộc sẽ khó hoàn thành.
Môi trường sinh sống và hoạt động hàng ngày đã giúp đồng bào Việt kiều hiểu rõ thế nào là một nước văn minh, hiện đại. Một nước không thiết lập được một nền dân chủ tự do và bình đẳng thật sự thì làm sao có thể gọi đó là nước văn minh, hiện đại, tiên tiến ?
Việt Nam rất muốn hội nhập vào thế giới văn minh, nhưng đồng thời cũng rất không muốn trở thành một nước văn minh - nước có nền dân chủ đa nguyên - và quyết duy trì chế độ chuyên chế độc tài dựa vào vũ lực, bạo lực. Thật là nghịch lý và khó hiểu.
Tóm lại, Liên Xô cũ và Đông Ấu cũ - được xây dựng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin - đã tan rã; đó là sự khuyến cáo đang thép về sự phá sản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Bởi vì đây không phải là một sự thất bại tạm thời của một cuộc cách mạng mà là sự sụp đổ của một "học thuyết cách mạng" đã từng là "ngọn đèn pha" soi đường đi lên CNXH và CNCS. Cái chính là "đèn pha" đã tắt lịm.
Sự sụp đổ của một chế độ độc tài về chính trị và kinh tế nói trên đã mở ra kỷ nguyên cả thế giới bao gồm Liên Xô cũ, Đông Ấu cũ, Mông Cổ, Cam-pu-chia và nhiều nước khác đi vào con đường tự do hoá về kinh tế và tự do hoá về chính trị - thực hiện nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền chính trị đa nguyên - dân chủ đa đảng - theo đúng qui luật vận động của thế giới đương thời. Đó chính là những giá trị phổ cập nhất của xã hội loài người ngày nay.
S. Thập kỷ 60-70 đến cuối 80 - chủ nghĩa xã hội đích thực; cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 - chủ nghĩa tư bản đích thực
Trước sự chuyển động lớn lao ấy của thế giới, Việt Nam thực hành chính sách đổi mới qùe quặt: chỉ đổi mới kinh tế, phản đối đổi mới chính trị: lấy tự do hoá kinh tế để củng cố độc tài chuyên chế, khẳng định độc tài, phản dân chủ là "đúng đắn", "hợp lòng dân"; lấy sự phát triển và phồn vinh của kinh tế thị trường làm thành quả của chủ nghĩa xã hội, coi đó mặc nhiên là chủ nghĩa xã hội. Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, của những thập kỷ 60,70,80 là đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, tiêu diệt kinh tế cá thể, tư nhân, tiêu diệt giai cấp người bóc lột người; còn chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của thập kỷ cuối 80 và đầu 90 hiện nay là đuề huề, thoả hiệp, hợp tác, thậm chí liên minh giai cấp nhằm phục hồi chủ nghĩa tư bản - phục hồi kinh tế cá thể, tư nhân, tư bản chủ nghĩa trong nước và cho tư bản nước ngoài vào đầu tư kinh doanh kiếm lời; đặc biệt đã dựa hẳn vào các nước tư bản phát triển nhất để "xây dựng chủ nghĩa xã hội"? Do đó, Việt Nam giống như cá đã "mắc câu", càng vùng vẫy thì "mắc câu" càng sâu tức càng khẳng định "kiên trì chủ nghĩa xã hội" thì càng đi sâu vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản mà không có sức mạnh nào cưỡng lại được.
Tất nhiên, chấp nhận và phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa của Việt Nam đã tạo điều kiện thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nền chính trị đa nguyên - dân chủ đa đảng. Bởi vì qui luật vận động khách quan vẫn là: kinh tế nào, chính trị ấy - kinh tế độc tài đi liền với chính trị độc tài; kinh tế tự do đi liền với chính trị tự do; chớ không thể kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa lại đi liền với chuyên chính độc tài vô sản được.
Cả thế giới tư bản chủ nghĩa nhiệt liệt hoan nghinh Việt Nam đổi mới và mở cửa vì Việt Nam đang tiến mạnh vào quỹ đạo kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do đó, nhiều nước tư bản sẵn sàng viện trợ, cung cấp tín dụng cho Việt nam, đầu tư vào Việt nam để cho Việt Nam tiến bước vững chắc trên con đường tư bản chủ nghĩa không những về kinh tế mà cả về chính trị. Bởi vì các nước tư bản nói trên đi vào Việt Nam bằng hai chân: kinh tế và chính trị, không những bằng đô la, máy móc thiết bị tối tân, hàng hoá, chuyên gia giỏi,... mà có cả vấn đề dân chủ, nhân quyền. Cho nên đừng có ai đó ngây thơ nghĩ rằng "họ" chỉ được quyền đến Việt Nam bằng kinh tế thôi. Kinh tế luôn luôn là tiền đề của chính trị. Sức mạnh toàn diện về kinh tế, chính trị và quân sự của thế giới tư bản cũng sẽ tác động rộng khắp trên các lĩnh vực của Việt nam, thúc đẩy Việt nam đổi mới triệt để, sâu sắc, chớ không phải đổi mới nửa vời như hiện nay.
Dựa vào vũ lực để củng cố chuyên chế độc tài đồng thời uy hiếp một dân tộc suốt 30 năm cầm súng chống ngoại xâm, sự thách thức ấy liệu sẽ dẫn đến hậu quả gì? Các chế độ độc tài thường xô đẩy đất nước vào thảm hoạ nội chiến. Gương Áp-ga-ni-xtan, Ê-ti-ô-pi, Nam Phi,...vẫn còn sờ sờ đó.
Điều tủi nhục cho dân tộc Việt Nam - dân tộc anh hùng lừng danh khắp thế giới - cuối cùng lại là dân tộc bị kềm kẹp nặng nề nhất, không có được một chút quyền dân chủ tự do (ngôn luận, báo chí, tư tưởng, quan điểm, mít tinh, biểu tình, đình công...)
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên của Liên Hiệp Quốc, là nước đã ký vào bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Nhưng Việt Nam không thực hiện bản tuyên ngôn ấy và không hề cho nhân dân Việt Nam biết rõ Bản Tuyên Ngôn, bưng bít suốt mấy mươi năm. Điều đó chỉ ra rằng Đảng cộng sản và chánh phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam đã biểu thị sự khinh thường của mình đối với Liên Hiệp Quốc và với cả dân tộc Việt Nam, với nhân dân thế giới. Vậy Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có xứng đáng là thành viên của Liên Hiệp Quốc không ?
Mặc dù luôn luôn tự xưng là "Đảng tiền phong, giải phóng dân tộc", nhưng suốt mấy mươi năm cầm quyền của Đảng là mấy mươi năm Đảng đã tước đoạt các quyền dân chủ tự do cơ bản của nhân dân, giam hãm nhân dân trong mê muội, tối tăm; từ đó đã mặc nhiên tạo nên sự khiếp sợ Đảng rộng khắp cả nước kể cả trong cán bộ đảng viên lâu năm, không khác gì sự khiếp sợ của nhân dân đối với các triều đại vua chúa ngày xưa. Cho nên trước những sai trái của Đảng, nhiều người lặng thinh không dám có ý kiến vì quá sợ Đảng. Đó là hậu quả tai hại nhất, nghiêm trọng nhất của chế độ độc tài, độc đảng ở Việt Nam.
Rõ ràng, Đảng cộng sản Việt Nam với hơn 60 năm lãnh đạo cách mạng và do không biết tự sám hối, nhạy cảm trước biến đổi của lịch sử, ngày nay đã tự biến mình trở thành chướng ngại lớn trên con đường phát triển đi đến văn minh của dân tộc Việt Nam.
Dân chủ tự do đối với loài người, mọi dân tộc trên thế giới như cơm ăn, nước uống, không khí để thở, tức con người muốn sống phải có dân chủ tự do; chớ không phải chỉ có những người ở phương Tây (Anh, Pháp, Đức,...) mơí cần có dân chủ tự do. Nhân dân Châu Ấu, Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Á, Châu Úc đều bức bách đòi hỏi phải có dân chủ tự do vì đó là sự sống. Chỉ có ở nước nào mà chế độ độc tài, phát xít được thiết lập thì ở đó mới không có dân chủ tự do và nhân dân phải sống lầm than, tủi nhục, đầy lo âu, sợ hãi.
Phải chăng Đảng cộng sản Việt nam đả kích mạnh dân chủ phương Tây để tiếp tục tước đoạt quyền dân chủ tự do của nhân dân Việt Nam hay đã đến lúc phải kịp thời thức tỉnh, sám hối và mau chóng hoàn trả lại cho nhân dân các quyền dân chủ tự do thật sự của họ ?
Nguyễn Hộ
A. Dân chủ tự do là thước đo chính xác về lòng trung thành của ĐCSVN đối với dân tộc mình
Xã hội văn minh là xã hội dân chủ tự do. Ngược lại chính dân chủ tự do càng thúc đẩy nền văn minh phát triển. Vì vậy dân chủ tự do trở thành xu thế tất yếu của thời đại và là yêu cầu không thể thiếu được của xã hội loài người. Do đó, đối với dân tộc Việt Nam hiện nay, dân chủ tự do càng cấp bách hơn bất cứ lúc nào hết. Dân chủ tự do là một trong những yếu tố căn bản nhất tạo nên định hướng chiến lược của Việt Nam. Vậy vấn đề dân chủ tự do từ trước tới nay ở Việt Nam ra sao?
Từ khi ra đời năm 1930 đến năm 1945 (cách mạng tháng 8), Đảng cộng sản Việt Nam hoạt động chủ yếu trong điều kiện bí mật, bất hợp pháp mặc dù trong hoàn cảnh thời gian nào đó, có một bộ phận của Đảng hoạt động công khai, bán công khai. Nhưng có điều xuyên suốt trong quá trình dài đó, Đảng cộng sản Việt Nam - người biết rõ khát vọng lớn lao về độc lập và dân chủ tự do của dân tộc Việt Nam trên một thế kỷ làm nô lệ cho chủ nghĩa đế quốc (Pháp, Nhật, Mỹ) - đã luôn luôn phát động phong trào đấu tranh rộng rãi của các tầng lớp nhân dân từ thành thị đến nông thôn đòi dân chủ tự do gắn liền với cuộc đấu tranh đòi và bảo vệ lợi ích của quần chúng; cụ thể là đấu tranh đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản, tự do hội họp, tự do lập hội, lập nghiệp đoàn, tự do đi lại, xuất dương (ra nước ngoài), tự do kết hôn, nam nữ bình đẳng, tự do biểu tình, tự do đình công... coi dân chủ tự do là vũ khí sắc bén để bảo vệ lợi ích quần chúng; đồng thời là động lực phát triển phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng chống áp bức bóc lột, bất công. Ngay trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và chống Mỹ (1955-1975), ở các cùng tạm chiếm (địch hậu) như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng v.v., Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn phát động quần chúng đấu tranh chống kềm kẹp, áp bức, đòi dân chủ, dân sinh kết hợp với đấu tranh võ trang cho đến khi kháng chiến thắng lợi. Tại Sài Gòn - trung tâm đầu não của các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trước đây - bất chấp khủng bố, đàn áp dã man, quần chúng nhân dân thành phố liên tục vùng lên đấu tranh chống các chính quyền độc tài, phát xít, tay sai của đế quốc, đòi dân chủ tự do bằng hội thảo, báo chí bán công khai, bằng mít tinh biểu tình, đình công thậm chí bằng tự thiêu (của tín đồ Phật giáo). Do đó, đối với nhân dân Việt Nam nói chung đặc biệt với nhân dân Miền Nam (bao gồm thanh niên, phụ nữ, sinh viên, học sinh, trí thức, văn nghệ sĩ, công nhân lao động, nông dân, tín đồ Phật giáo, Công giáo và các từng lớp khác) nói riêng, vấn đề tự do dân chủ không phải là điều gì xa lạ đối với họ; mà ngược lại chính dân chủ tự do đã thấm vào xương, vào máu của nhân dân Việt Nam, đã trở thành giá trị thực sự được tạo ra bằng sự hy sinh lớn lao, dai dẳng thông qua thực tiễn đấu tranh ngoan cường, mặt giáp mặt với quân thù của dân tộc Việt Nam suốt 45 năm chiến đấu cách mạng. Đó là cái giá rất đắt phải trả cho một giá trị - giá trị dân chủ tự do. Điều đó có nghĩa là giá trị ấy tuyệt đối không thể biến thành đặc ân của bất cứ ai.
Thế nhưng, từ sau thắng lợi lẫy lừng Điện Biên Phủ (1954) và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975), đất nước Việt Nam đi vào con đường xã hội chủ nghĩa dưới sự độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thì bốn chữ: Dân chủ-Tự do và cuộc đấu tranh cho dân chủ tự do dần dần bị lu mờ và tắt lịm; vì lúc bấy giờ, mọi người đều được giáo dục rằng: trong chủ nghĩa xã hội, mọi vấn đề đều có sự lãnh đạo của Đảng, mọi thứ đều tốt cả, nên không cần có đấu tranh của quần chúng. Đấu tranh của quần chúng chỉ tồn tại trong xã hội cũ - xã hội thuộc địa. Trong chủ nghĩa xã hội, Đảng và nhân dân là một; giữa Đảng và nhân dân không thể có ý kiến, quan điểm khác nhau, không có đối lập, đối kháng, nên không thể có đấu tranh, đình công, biểu tình. Do đó, trong chủ nghĩa xã hội không có vấn đề đấu tranh cho dân chủ tự do vì chế độ xã hội chủ nghĩa (chuyên chính vô sản) là chế độ "dân chủ một triệu lần hơn chủ nghĩa tư bản " (?)
B. Chủ nghĩa xã hội không thể công nhận có đấu tranh của quần chúng
Song, thực tiễn thì rất phức tạp, luôn luôn vận động theo qui luật và không hề diễn biến theo xét đoán chủ quan của con người. Vả lại, trong chủ nghĩa xã hội, thực tế thì có biết bao nhiêu vấn đề không tốt, không kém gì những vấn đề không tốt trong xã hội thực dân, đế quốc trước đây, thậm chí có những mặt còn nghiêm trọng, tồi tệ hơn nhiều; cụ thể là trong chủ nghĩa xã hội vẫn có những kẻ dựa vào địa vị, quyền lực mà áp bức, bóc lột quần chúng,cướp đất, cướp nhà, trấn áp, uy hiếp, trù dập quần chúng, bắt bớ giam cầm họ một cách phi pháp; xã hội dẫy đầy bất công tham nhũng, ăn hối lộ "tràn đồng"; thất nghiệp, ăn mày, làm đĩ nhan nhãn; giết người cướp của lộng hành; đồng lương chết đói kéo dài 15-20 năm không được cải thiện trong khi giá cả cứ tăng vùn vụt 10 lần, 20 lần...(năm 1975: 1 tô phở chỉ có 5 đồng nhưng đến năm 91-92 là 2000 đồng trở lên và mọi thứ hàng hoá khác đều tăng giá giống như vậy).
Do chính sách độc tài, do bị kềm kẹp nặng nề và sợ bị "chụp mũ", bị trấn áp nên quần chúng nhân dân ngán ngại đấu tranh đòi và bảo vệ quyền lợi bức bách của mình như vấn đề tiền lương, giá cả, thuế khoá, nhà ở, ruộng đất, sa thải, thất nghiệp, tham nhũng, hối lộ, bắt bớ giam cầm trái phép, v.v... và đành phải im hơi lặng tiếng, cam chịu lầm than cơ cực, sống cuộc đời nô lệ như xưa kia mặc dù vẫn mang danh là công dân của nước Việt Nam "xã hội chủ nghĩa".
Rõ ràng ở Việt Nam - đất nước của một dân tộc anh hùng - chỉ có độc lập (không còn bị nước ngoài thống trị), chớ không hề có dân chủ tự do, đặc biệt về chính trị, tư tưởng, mặc dù nhân dân Việt Nam đã chịu hy sinh hàng triệu người cho cuộc đấu tranh lâu dài vì độc lập dân tộc, vì dân chủ tự do và vì ấm no hạnh phúc (tuy về kinh tế với chính sách đổi mới gần đây, người nông dân được tự do canh tác trên mãnh đất của mình và người sản xuất kinh doanh được tự do hoạt động theo ngành nghề của họ).
C. Hậu quả gì khi các quyền dân chủ tự do của nhân dân bị tước đoạt?
Ai cũng biết rằng độc lập dân tộc, dân chủ tự do, ấm no hạnh phúc là những nội dung, yêu cầu rất quan trọng mang tính chất chiến lược tuy nó có khác nhau nhưng lại quyện chặt vào nhau trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân Việt nam - cuộc kháng chiến cứu nước trường kỳ và toàn thắng. Chính vì lẽ đó mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra lời giáo huấn sâu sắc là: “Không có gì quí hơn độc lập tự do", có độc lập mà không có tự do ấm no hạnh phúc thì độc lập cũng vô nghĩa. Nhưng điều khó hiểu là những người kế tục sự nghiệp cao cả của cụ Hồ, một mặt luôn luôn đề cao tư tưởng Hồ Chí minh, mặt khác thì lại vô hiệu hoá lời dạy ấy của Cụ, đã tách dân chủ tự do khỏi nội dung độc lập dân tộc. Cho nên ở Việt Nam, như đã nói trên chỉ có độc lập dân tộc chứ không có dân chủ tự do là như thế đó.
Chính Đảng cộng sản Việt Nam đã tước đoạt của nhân dân các quyền tự do mà nhân dân đã từng trả giá quá đắt - thứ vũ khí mà nhân dân phải có để bảo vệ lợi ích của mình khi nó bị vi phạm bất cứ trong hoàn cảnh nào. Dân chủ tự do bị chà đạp, vũ khí tự vệ bị tước đoạt thì nhân dân giống như những người bị xiềng xích, bị bịt tai, bịt mắt, khớp miệng và tất nhiên gần 70 triệu người Việt Nam không thể không biến thành tù binh của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trên khắp thế giới sau thắng lợi của cách mạng và khi đã cầm quyền rồi, các Đảng cộng sản (Liên xô, Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Đông Ấu cũ, Cuba,...) đều trở thành các đảng độc tài, chuyên chế, phản dân chủ. Cho nên, các Đảng nói trên rất sợ dân chủ tự do, sợ nói đến dân chủ, sợ đối thoại với quần chúng và luôn luôn sẵn sàng đàn áp những quan điểm tư tưởng trái với mình, đàn áp những yêu sách về dân chủ của quần chúng mặc dù hằng ngày trên miệng của người lãnh đạo đảng luôn nói về "quyền làm chủ của nhân dân", trong khi trên thực tế, các quyền dân chủ tự do của công dân như hiến pháp qui định đã bị chà đạp trắng trợn thì lấy gì để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đối với đất nước xã hội (làm chủ khác hẳn với làm theo lịnh của cấp trên).
Khi nói đến nhân dân quần chúng là phải nói đến vấn đề dân chủ. Chỉ có thông qua việc thực hiện nghiêm chỉnh các quyền dân chủ tự do của nhân dân thì người lãnh đạo mới thiết lập được mối liên hệ chân chính giữa mình với nhân dân quần chúng. Nhân dân bị kiềm kẹp, không được quyền tự do bộc lộ ý kiến tư tưởng, quan điểm, tâm tư nguyện vọng của mình mặc dù có thể nó không phù hợp với quan điểm của lãnh đạo thì làm sao giải thích được rằng đất nước này đã có dân chủ tự do ?
D. Ai khác ý kiến quan điểm thì bị quy chụp trấn áp
Phải chăng Việt Nam đã có "dân chủ tự do" khi mà một uỷ viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (khoá 6) Trần Xuân Bách chỉ vì phát biểu ý kiến về vấn đề đa nguyên chính trị (dân chủ-công khai-đa đảng) thì lập tức bị lên án, bị cách chức ngay? Hay như ông Bùi Tín - Phó tổng biên tập báo Nhân Dân (cơ quan trung ương của ĐCSVN) phải tìm cách ra nước ngoài để được tự do phát biểu ý kiến của mình về chuyên chính độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam với nhân dân cả nước và thế giới?
Phải chăng đó là dân chủ tự do khi nữ văn sĩ Dương Thu Hương phát biểu ý kiến phản đối chuyên chính vô sản, độc quyền lãnh đạo của ĐCSVN, đòi thi hành dân chủ tự do thì bị qui là "phản động" và bị khai trừ khỏi Đảng, bị bắt, bị giam (sau một thời gian thì được trả tự do nhờ có sự can thiệp của tổ chức nhân quyền quốc tế)? hoặc như Ông Nguyễn Thành Thơ ( Mười Thơ) - nguyên chủ tịch hội nông dân tập thể Việt Nam - bị quản thúc mấy năm liền chỉ vì Ông quyết tâm đấu tranh đòi Đảng và nhà nước trả lại ruộng đất (đã hợp tác hoá) cho người nông dân để họ được tự do canh tác trên mãnh đất của mình và được cơm no áo ấm?
Phải chăng đó là dân chủ tự do khi Đảng cộng sản Việt Nam làm áp lực buộc hai Đảng Dân Chủ và Xã Hội - bạn đường kháng chiến mấy mươi năm của mình phải tuyên bố tự giải tán "vì đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử" trong lúc nhân dân khắp thế giới đang vùng lên đấu tranh phá tan các chuyên chế độc tài và thành lập nền chính trị đa nguyên - dân chủ đa đảng ? hay như trường hợp của Ông Bảy Triển - Phó giám đốc đài truyền hình Cần Thơ - bị cách chức và cho nghỉ hưu chỉ vì ông đã làm tốt chức năng thông tin của mình, tường thuật đầy đủ trong 7 đêm liền diễn biến của phiên toà xét xử Dương văn Ba (cán bộ kinh tế của tỉnh) tại tỉnh Minh Hải (đầu năm 1990) và phiên toà được lãnh đạo đánh giá là "xét xử đúng đắn"? (vì lãnh đạo chỉ cho phép đưa tin về kết qủa xét xử, tuyên án chớ không cho phép tường thuật toàn bộ diễn biến của phiên toà. Vả lại, đông đảo nhân dân và cán bộ nghỉ hưu Đồng bằng Cửu Long phản đối phiên toà và đã có đơn tập thể khiếu nại, đòi xét xử lại).
Phải chăng đó là dân chủ tự do khi những người kháng chiến thời kỳ ở Sài Gòn không được quyền lập Hội những người kháng chiến mà chỉ được phép lập Câu lạc bộ thôi, không được quyền hội thảo chống tiêu cực, không được quyền làm mít tinh kỷ niệm ngày truyền thống (Nam Bộ kháng chiến), báo Truyền thống kháng chiến bị tịch thu và bị đình bản, Câu lạc bộ những người kháng chiến thành phố Hồ Chí Minh bị cấm hoạt động và cuối cùng nhiều cán bộ của Câu lạc bộ những người kháng chiến TP kể cả chủ nhiệm bị bắt, bị giam, bị quản thúc (từ đầu năm 1990) thậm chí nhiều người có quan hệ tốt với CLB những người kháng chiến thành phố (đọc báo "truyền thống kháng chiến", dự hội thảo...) ở các tỉnh Sông Bé, Tiền Giang, Cửu Long, Hậu Giang,...cũng bị khủng bố, đàn áp?
E. Đảng Cộng Sản Việt Nam phát động đấu tranh "chống đa nguyên, đa đảng"
Không phải vì dân tộc, đất nước mà chính vì sợ mất vai trò lãnh đạo và đặc quyền, đặc lợi của cá nhân hoặc một nhóm người lãnh đạo mà Đảng cộng sản Việt Nam đã chà đạp thô bạo hiến pháp của nước CHXHCN Việt nam, biến nó thành một thứ trang trí, không có giá trị thực tiễn trong việc bảo vệ dân chủ tự do và lợi ích của công dân; ra sức chống lại quyết liệt những đòi hỏi về các quyền dân chủ tự do của nhân dân dưới chiêu bài "chống đa nguyên, đa đảng" để hù hoạ trước hết trong nội bộ Đảng và sau đó trong đông đảo quần chúng rằng "đa nguyên, đa đảng là một quan điểm rất nguy hiểm, chống Đảng, chống cách mạng, chống chủ nghĩa xã hội của bọn phản động "nhằm siết chặt đội ngũ cán bộ, đảng viên tạo thêm sức mạnh để chống "đa nguyên, đa đảng" và làm cho quần chúng ngán ngại quan điểm nói trên. Việc làm đó nhắm vào 2 mục tiêu: một mặt, nó cô lập cao độ và làm suy yếu lực lượng đấu tranh cho dân chủ tự do của cả nước; mặt khác nó che đậy khéo léo bản chất độc tài phản dân chủ của Đảng cộng sản.
Tất nhiên, sự hù doạ ấy có tác dụng lôi kéo những người nhẹ dạ, khiếp đảm, kém hiểu biết, ngả về phía độc tài chuyên chế, phản dân chủ, nhưng nó không thể lung lạc được những người trung thực, hiểu biết, có đầu óc dân chủ.
Để bảo vệ chế độ độc tài, chuyên chế, phản dân chủ ấy trong nền kinh tế thị trường phồn vinh (kinh tế tư bản mà Đảng cộng sản Việt Nam buộc phải chấp nhận để cứu lấy mình), người ta đưa ra lập luận để thực hành rằng Việt Nam có đặc điểm riêng là một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ dân trí kém nên không thể thiết lập một chế độ dân chủ tự do rập khuôn như ở các nước phương Tây. Do đó Đảng cộng sản Việt Nam thông qua Ông Võ Văn Kiệt - đang là chủ tịch Hội đồng bộ trưởng - chánh thức mời Ông Lý Quang Diệu (cựu thủ tướng Xinh-ga-po) sang làm cố vấn cho Việt Nam (gần cuối năm 1992) không những về kinh tế mà cả về chính trị. Điều đó có nghĩa là Việt Nam sẽ làm theo mô hình Xinh-ga-po: thiết lập nền kinh tế thị trường phồn vinh nền chính trị chuyên chế độc tài, phản dân chủ. Thật là đáng tủi nhục cho dân tộc Việt Nam với gần 70 triệu người và với một lịch sử chiến đấu oai hùng mà thế giới đều biết và khâm phục, ngày nay lại được so sánh và xếp hạng về chính trị nganh hàng với Xinh-ga-po (với non 3 triệu dân và với một lịch sử bình thường). Từ đó cho thấy rằng xuyên qua tầm nhìn của Đảng cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam lại chưa có trình độ và chưa xứng đáng được quyền hưởng một chế độ dân chủ tự do đúng nghĩa đầy đủ của nó, mặc dù họ đã hy sinh quá lớn lao, máu chảy, đầu rơi,núi xương, sông máu cũng chính là vì dân chủ, tự do.
Quyết định một vấn đề rất quan trọng liên hệ đến vận mạng của dân tộc, đất nước như nói trên mà không cần trưng cầu ý dân lại chủ yếu vẫn làm theo phương thức độc đoán, độc tài; rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay khinh rẻ dân tộc Việt Nam cỡ nào! Nhưng cả nước lại im lặng, có phải là đồng tình không? Hay vì bị kềm kẹp quá nặng nề mà không thể cất tiếng lên được? Cho nên, trước tình hình phức tạp nầy, có nhiều người đặt ra câu hỏi: Dân chủ đa nguyên là gì ?
G. Đa nguyên: biểu tượng muôn màu muôn vẻ của mọi sự vật
Chúng ta biết rằng tạo hoá, thiên nhiên vạn vật, xã hội loài người, tất cả điều là biểu tượng của đa nguyên - tổng hợp những cái khác nhau của mọi sự vật và thúc đẩy sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau của chúng.
Khi nói đến vũ trụ, người ta nghĩ trong đó không những có mặt trời, mặt trăng, trái đất, sao hỏa, sao kim mà còn có hàng triệu, hàng tỷ thiên hà và mỗi thiên hà có hàng triệu hàng tỷ vì sao (hành tinh) mà mắt thường của chúng ta không thể nhìn thấy rõ.
Còn nói đến sự vận động của trái đất, nó không những tạo ra ban ngày ban đêm, mặt trời mọc, mặt trời lặn, đêm sáng trăng, đêm tối như mực, bốn muà: xuân, hạ, thu, đông; mưa nắng mà cả bão lụt dông tố, hạn hán, động đất, hoạt động của núi lửa, dòng chảy dữ dội và tàn phá của dung nham; những cơn lốc rất tai hại; những đợt nước biển dâng cao kéo theo nhiều thảm hoạ, đất sụp, núi sụp...
Rừng không những ở núi cao mà còn có rừng ở thung lũng, đồng bằng và dưới nước (rừng sát). Điều chắc chắn là sự cấu tạo của rừng sát hoàn toàn khác với rừng trên núi cao. Rừng không những có nhiều loại cây rất phong phú mà còn có nhiều loại thú, loài chim khác nhau thậm chí có những loại hoa hương sắc kỳ diệu và các loại cây thuốc trị bịnh quí giá.
Có vườn hoa nào mà chỉ có một loại hoa, ít nhất phải có hàng chục, thậm chí hàng trăm loại với hàng trăm màu sắc lộng lẫy và hương thơm đậm đà quyến rũ.
Trong văn học nghệ thuật, tự do cá nhân của con người được nẫy nở bao nhiêu thì văn học nghệ thuật được nẫy nở bấy nhiêu. Chính sự nẫy nở tự do ấy tạo nên sự khác nhau - muôn màu, muôn vẻ - trong văn học nghệ thuật mà người ta thường gọi đó là sự sáng tạo đầy cá tính. Có vậy, văn học nghệ thuật mới có ý nghĩa lớn lao và không ngừng phát triển. Nếu ca hát giống nhau, âm nhạc giống nhau, viết văn giống nhau thì văn học nghệ thuật còn có ý nghĩa gì ?
Nói "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng" là thừa nhận tính chất đa nguyên của mọi sự vật, của mọi lãnh vực.
Trong xã hội loài người gồm nhiều màu da, sắc tộc ở nhiều nước khác nhau trên nhiều Châu và đại dương khác nhau (Châu Á, Châu Ấu, Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Úc; Thái bình dương, Đại tây dương, Ần độ dương, Bắc băng dương); và trong một nước cũng có nhiều dân tộc, sắc tộc, nhiều tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán khác nhau: nhiều giai cấp, giai tầng, tôn giáo tín ngưỡng khác nhau và nhiều Đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau.
Vậy tại sao ở Việt Nam cũng có nhiều dân tộc, nhiều giai cấp, giai tầng, nhiều tín ngưỡng tôn giáo, nhiều trình độ học vấn và môi trường đào tạo khác nhau,...lại chỉ được quyền tồn tại một quan điểm, một tư tưởng, một Đảng thôi ?
Trong khi đó ở khắp thế giới - 5 châu, 4 biển - đâu đâu cũng thấy có sự tồn tại và phát triển của nền chính trị đa nguyên, dân chủ đa đảng (ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Canada, Ần độ, Ang-giê-ri, Nam Triều Tiên, Thái Lan, Nam Phi, các nước Bắc Ấu, Châu Mỹ la-tinh,...), đặc biệt ở Cam-pu-chia - nước láng giềng mà Việt Nam với tinh thần "quốc tế vô sản" đã hy sinh biết bao xương máu tại đây để giúp bạn "bảo vệ độc lập" và "xây dựng chủ nghĩa xã hội" - vào cuối năm 1991 đã tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa xã hội, từ bỏ chủ nghĩa độc nguyên - độc quyền lãnh đạo của Đảng - biến Đảng nhân dân cách mạng Cam-pu-chia (tức đảng cộng sản) thành đảng của nhân dân Cam-pu-chia; chủ trương thi hành chính sách hoà giải, hoà hợp dân tộc, chấm dứt chiến tranh, thực hiện hoà bình, thi hành chính sách dân chủ - đa nguyên, đa đảng và xây dựng một nền kinh tế thị trường sống động (kinh tế tư bản) ở Cam-pu-chia.
H. Người bảo vệ độc tài trở thành người bảo vệ đa nguyên.
Nhưng một thực tế trớ trêu khác lại đồng thời diễn ra trên thế giới ngày nay: những người cộng sản trong Đảng cộng sản Liên Xô (cũ) và các Đảng cộng sản Đông Ấu (cũ), nếu trước đây họ tán thành và ra sức bảo vệ chủ nghĩa độc nguyên, độc tài vô sản, độc tài của Đảng cộng sản - chống quyết liệt chủ nghĩa đa nguyên chính trị (dân chủ đa đảng), chống việc hình thành lực lượng đối lập trong chánh quyền Xô Viết, xã hội chủ nghĩa thì ngày nay, sau khi Liên Bang Xô Viết và Đảng cộng sản Liên Xô (cũ), các nước xã hội chủ nghĩa và các đảng cầm quyền ở Đông Ấu (cũ) tan rã, những người cộng sản nói trên lại nhiệt liệt hoan nghinh và ra sức bảo vệ chủ nghĩa đa nguyên chính trị vì chính họ phải được tiếp tục tồn tại trên cơ sở môi trường mới này. Do đó, hiện nay, khoảng 20 triệu Đảng viên của Đảng cộng sản Liên Xô (cũ) đang tích cực tham gia không phải một Đảng mà tham gia vào hàng trăm Đảng phái và tổ chức chính trị khác nhau trong đó đa số có khuynh hướng mác-xít ở các nước cộng hoà thuộc Liên Xô (cũ) kể cả nước Nga, do họ có nhiều quan điểm, tư tưởng bất đồng, không dễ dàng thống nhất được, nhưng tất cả họ đều nổ lực hoạt động để trở thành lực lượng đối lập với chính quyền hiện hữu để góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển toàn diện đất nước và xã hội. Điều đó xác nhận rằng việc họ bảo vệ chủ nghĩa độc nguyên, độc tài của Đảng cộng sản trước đây, chẳng qua vì họ phải chịu một áp lực quá nặng nề của Đảng cộng sản Liên Xô và các Đảng cộng sản Đông Ấu (cũ). Họ là "tù binh", là nô lệ về tư tưởng trong chế độ Xô Viết, xã hội chủ nghĩa mà họ không hề biết. Nhưng chính thực tiễn cuộc sống ngày nay đã làm thay đổi sâu xa nhận thức của họ về quyền con người, về dân chủ tự do và độc tài chuyên chế, về động lực thúc đẩy xã hội đi đến phồn vinh, ấm no, hạnh phúc, văn minh hiện đại và giúp họ tránh được mù quáng trong niềm tin.
I. Giữa thay đổi chính trị và thay đổi kinh tế có sự khác biệt lớn
Tuy nhiên đối với các nước cộng hoà Liên Xô cũ và các nước Đông Ấu cũ hiện nay, điều quan trọng là không nên lẫn lộn giữa sự thay đổi của cục diện chính trị và sự thay đổi của cũc diện kinh tế. Hai lĩnh vực này hoàn toàn khác nhau và mỗi lĩnh vực có qui luật vận động riêng của nó, tuy nó có liên quan chặt chẽ và tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Thay đổi cục diện chính trị của một nước có khi chỉ diễn ra trong một vài năm thậm chí năm, ba tháng; còn thay đổi cục diện kinh tế của một đất nước sẽ khó khăn gấp trăm lần.
Từ chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường (kinh tế tư bản chủ nghĩa) - tự quay 180 độ - các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ và các nước thuộc Đông Ấu cũ nếu không đòi hỏi 70-80 năm thì ít nhất cũng phải mất 20-30 năm để đạt sự phồn vinh, giàu có, ấm no hạnh phúc, văn minh hiện đại. Nếu bằng tình cảm và ước vọng, thiếu căn cứ khoa học, người ta định áp đặt thời gian để xây dựng nền kinh tế thị trường đạt tới trình độ phát triển cao của thế giới ngày nay chỉ trong thời hạn 5-7 năm. Đó là điều ảo tưởng nếu không nói là "bốc đồng".
K. Chế độ Phát-Xít: không hề có đa nguyên đa đảng
Như trên đã nói, Đảng cộng sản Việt Nam phát động chống đa nguyên, đa đảng là chống lại sự nghiệp dân chủ tự do của dân tộc Việt Nam, chống lại văn minh tiến bộ của đất nước tức muốn kiềm hãm dân tộc Việt Nam trong mê muội tối tăm, mù quáng. Bởi vì không có một nước nào trên thế giới có một chế độ đa nguyên, đa đảng mà lại không có một nền dân chủ rộng lớn. Đa nguyên, đa đảng gắn liền với dân chủ tự do là nền tảng đã sản sinh ra đa nguyên đa đảng. Chỉ có ở những nước chuyên chế độc tài, phát xít tàn bạo thì không bao giờ có sự tồn tại của đa nguyên đa đảng.
Bằng chuyên chế độc tài được sơn phết bóng loáng, Đảng cộng sản Việt Nam quyết chống lại các quyền dân chủ tự do của nhân dân quần chúng, nhưng lại không dám nói thẳng điều đó mà phải mượn cái chiêu bài "chống đa nguyên, đa đảng"; vì nếu tuyên bố thẳng thừng rằng: Đảng cộng sản Việt Nam không chấp nhận mà bác bỏ dân chủ tự do, hoá ra Đảng đã tự phơi trần bản chất độc tài, phản dân chủ của mình trước nhân dân cả nước và thế giới sao ?
Chiêu bài "chống đa nguyên, đa đảng" có thể lường gạt được những kẻ nhẹ dạ, yếu bóng vía, kém hiểu biết, mù quáng; ngoài ra nó không thể lừa gạt được ai.
Để chống lại dân chủ tự do của nhân dân có hiệu lực, ngoài việc kêu gọi "chống đa nguyên, đa đảng", Đảng cộng sản Việt nam còn phát động trong nội bộ Đảng và ngoài quần chúng đấu tranh "chống tư tưởng tự do tư sản hoá", "chống diễn biến hoà bình".
L. Tư tưởng "Tự Do Tư Sản Hoá" là gì ? - Tư tưởng muốn có tự do 100%
Tư tưởng "tự do tư sản hoá" là tư tưởng của nhiều người Việt Nam muốn ở nước mình có một nền dân chủ thực sự như ở các nước tư bản tiên tiến phương Tây để thay thế nền dân chủ giả hiệu của Việt Nam hiện nay - dân chủ trên lời nói, dân chủ hình thức. Hiến pháp của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn có ghi đủ các quyền tự do của công dân như: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do mít tinh, tự do biểu tình,...nhưng trên thực tế thì không hề có những thứ tự do đó. Bởi vì bộ máy kềm kẹp, kiểm soát chặt chẽ của Đảng cộng sản và chánh quyền, kể cả các cơ quan thông tin tuyên truyền (quốc doanh) đều làm cho đông đảo quần chúng ngán ngại, không dám hành động để đạt được các quyền tự do dân chủ nói trên của mình. Vì vậy, đối với các quyền dân chủ tự do của công dân, hiến pháp chỉ là một mãnh giấy lộn, không có giá trị thực tiễn gì cả. Nhưng điều đáng kinh ngạc là trước tình hình vi phạm nghiêm trọng các quyền dân chủ tự do của công dân trong nhiều năm qua và cho đến bây giờ, không hề có sự lên tiếng đấu tranh phản đối của Quốc hội - được coi là "cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất" hoặc Quốc hội chất vấn chính phủ về những vi phạm ấy và đề ra những biện pháp cụ thể nhằm thực hiện nghiêm chỉnh các quyền dân chủ tự do của công dân đã ghi trong hiến pháp.
Vì sự độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản nên Quốc hội chỉ biết làm theo chỉ thị của Đảng. Vả lại, hầu hết đại biểu quốc hội là cán bộ đảng viên của đảng, do đó trước khi khai mạc quốc hội, những đảng viên, cán bộ ấy được một đại diện của bộ chính trị đến để huấn thị là Quốc hội cần phải làm như thế này, như thế này...Số người ngoài Đảng trong Quốc hội không đáng kể, hơn nữa, nếu có thì chính họ cũng đã được đảng hoá (mác-xít hoá) mất rồi.
Cho nên có thể nói: Quốc hội là Đảng, Đảng là Quốc hội - Nhà nước là Đảng, Đảng là Nhà nước. Với tính chất ấy đại biểu Quốc hội không phải là người nói tiếng nói trung thực của nhân dân (cử tri) mà chính là người chỉ nói tiếng nói của Đảng thôi.
Do đó, Đảng cộng sản Việt Nam cũng như các đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại (Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên) đều rất sợ "tự do tư sản hoá" - thứ tự do đúng nghĩa của nó 100% tức là các quyền dân chủ tự do của công dân như: tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội, lập đảng phái, tự do đình công, biểu tình,...đã ghi trong Hiếp Pháp đều được thể hiện đầy đủ trong thực tiễn sinh động của xã hội. Vì vậy khi quần chúng nhân dân có các quyền dân chủ tự do - thứ vũ khí tự vệ và tấn công rất sắc bén - thì bất cứ đảng phái cầm quyền nào không thể dễ dàng thực hiện chuyên chế độc tài, đặc quyền, đặc lợi, áp bức, trù dập quần chúng nhân dân được. Cụ thể là: Khi quyền lợi bị vi phạm và trước những bất công, hàng ngàn, hàng vạn, hàng chục vạn thậm chí hàng triệu người bao gồm các tầng lớp nhân dân: nhân sĩ trí thức, thầy cô giáo, ý tá bác sĩ, công nhân lái xe, bốc vác, thợ mỏ, công nhân đường sắt, cơ khí, luyện kim, đóng tàu,...viên chức ngành hàng không, bưu điện viễn thông, sinh viên, học sinh, nông dân trang trại ở các nước: Anh, Pháo, Mỹ, Đức, Ý, Nhựt, Ần độ, Bra-xin, Nam Triều Tiên, Thái Lan,...đã vùng lên đấu tranh liên tục bằng các hình thức: đính công, tổng đình công, bãi khoá, tổng bãi khoá thậm chí xuống đường biểu tình đói tăng lương, cải thiện điều kiện lao động và đời sống, đói tăng ngân sách giáo dục, y tế, đòi bảo đảm tiếp tục tài trợ cho nông nghiệp, bảo vệ nông sản trong nước, đòi Quốc hội cách chức và đưa Tổng Thống ra xét xử (Bra-xin) vì có dính líu đến tham nhũng nghiêm trọng; biểu tình phản đối phiên toà xét xử bất công (vụ 4 cảnh sát da trắng đánh chết một lái xe da đen ở LosAngeles - 1992); biểu tình hoan hô các quan toà có sáng kiến phát động mạnh mẽ phong trào chống tham nhũng - "Bàn tay trong sạch" - trong cả nước (Ý); và cả những cuộc biểu tình chống quân phiệt, độc tài, đòi dân chủ tự do bị đàn áp dữ dội (ở Thái Lan tháng 5/1992)..v..v..Tất nhiên, trước sức đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, chính quyền các nước có liên quan phải nhượng bộ và giải quyết thỏa đáng các yêu sách của quần chúng.
Ở các nước dân chủ, người được bầu làm tổng thống, thủ tướng là người được đa số nhân dân tín nhiệm trong việc điểu khiển đất nước theo một nhiệm kỳ nhất định. Tuy nhiên người ta không coi những vị ấy là những ông thánh sống. Do đó, họ tự đặt cho mình có nhiệm vụ giám sát những hoạt động của tổng thống, thủ tướng và trong từng lúc họ đều có phản ứng kịp thời.
Những cuộc thăm dó dư luận thường xuyên ở các nước dân chủ là cách tốt nhất cho mọi người dân biết rõ từng lúc vị tổng thống, thủ tướng nào cón giữ được sự tín nhiệm của nhân dân hay sự tín nhiệm ấy đã bị giảm sút nhiều (với tỷ lệ phần trăm rất cụ thể) thậm chí tín nhiệm không còn. Có như vậy tổng thống và thủ tướng mới biết rõ mình hiện giờ ra sao trước con mắt giám sát của đông đảo quần chúng nhân dân để phấn đấu, tiếp tục vươn lên phía trước hoặc để khắc phục những sai lầm thiếu sót về đạo đức, tác phong và tinh thần trách nhiệm của mình.
Chớ không phải như ở Việt Nam, một vài ông Uỷ viên bộ chính trị đồng thời là thành viên của Hội đồng bộ trưởng (từ năm 1990 trở về trước) có vợ đi buôn lậu, dựa vào thế lực của chồng tha hồ sử dụng các phương tiện giao thông của nhà nước như máy bay, ô-tô,... cho hoạt động vụ lợi bất chính của mình suốt hàng chục năm mà vẫn bình yên vô sự; cũng như có ông đã biến công việc của nhà nước thành công việc riêng của gia đình mình, tha hồ hoạt động kiếm đô la (ở nước ngoài) một cách dễ dàng suốt trên hai thập kỷ mà vẫn phơi phới vững như bàn thạch: trong khi cả xã hội từ Bắc chí Nam, nhân dân, đặc biệt là công nhân viên chức, gia đình cán bộ bàn tán xôn xao tình hình nói trên. Nhưng tuyệt đối không hề được các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình (tất cả là của Đảng và nhà nước) nêu lên. Hơn nữa cơ quan lãnh đạo của Đảng cũng không hề tỏ rõ thái độ của mình một cách công khai trước nhân dân cả nước đối với tình hình suy thoái nghiêm trọng nói trên ngay tại cơ quan đầu não mà vẫn cứ coi như trong lãnh đạo không có việc gì xảy ra và rất êm thắm. Rõ ràng, đây là một sự bao che đầy quyền lực đối với những hành vi tiêu cực kéo dài ở tận chóp bu.
Ở Việt Nam tham nhũng đã trở thành quốc nạn, nhưng Việt Nam lại là nước không có dân chủ tự do - dân không có quyền - thì làm sao chống tham nhũng có hiệu quả? Cho nên, điều trớ trêu thường xuất hiện là người hô hào chống tham nhũng chính lại là kẻ tham nhũng rất tệ hại.
Tất cả tình hình nói trên cho thấy dân chủ tự do là rất bức bách đối với mọi dân tộc, là vũ khí sắc bén được nhân dân sử dụng để thực hiện quyền làm chủ thực sự của mình đối với đất nước, xã hội; chớ không phải như ở Việt nam, "làm chủ" chỉ là khẩu hiệu suông, trống rỗng vì nhân dân không hề có quyền dân chủ tự do thật sự bao giờ.
Phải dám nhìn thẳng vào sự thật và không được quyền bóp méo nó qua cặp kính "ý thức hệ mác-xít"; chúng ta phải thừa nhận rằng dân chủ tư sản (dân chủ ở các nước tư bản) là chế độ dân chủ thực sự được xây dựng hơn hai thế kỷ qua bằng cuộc đấu tranh trường kỳ bền bỉ thậm chí đổ máu của nhân dân các nước, chớ dân chủ không hề là một thứ đặc ân của giai cấp thống trị.
Chúng ta đều biết ở nhiều nước tư bản đã từng trải qua những thời kỳ mà chế độ độc tài phát-xít được thiết lập; đồng thời nền dân chủ tự do ở đây bị thủ tiêu như: chế độ Phát-xít Hittle ở Đức, Mussolini ở Ý, Thiên Hoàng ở Nhật, Franco ở Tây Ban Nha, Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc (trước 1949), Lý Thừa Vãng ở Nam Triều Tiên, Ngô Đình Diệm ở Miền Nam Việt Nam, Pinochet ở Chi Lê,..v.v...
Do đó, nhân dân các nước nói trên không thể không vùng lên đấu tranh quyết liệt kể cả đổ xương, đổ máu để giành giựt lấy nó, bảo vệ và phát triển nền dân chủ tự do của mình.
M. Dân chủ tự do phải trả giá
Dân chủ tự do là một sự nghiệp cách mạng lớn lao nên không thể không có hy sinh, và chính nền dân chủ phải trả giá đắt ấy là nền dân chủ thật sự, chân chính.
Cuộc đấu tranh vì dân chủ tự do của nhân dân Trung Quốc ở Thiên An Môn (Bắc Kinh) hồi tháng 05 và tháng 06/1987 và của nhân dân Thái Lan, Nam Phi gần đây (1992), bất chấp súng đạn, xe tăng của bọn phát xít diệt chủng, bọn phân biệt chủng tộc đã nói lên tình chất quyết liệt, đầy hy sinh gian khổ của cuộc đấu tranh vì dân chủ tự do.
Còn dân chủ do lãnh đạo ban cho - dân chủ không phải trả giá gì cả - là thứ "dân chủ giả hiệu" nhằm đánh lừa thiên hạ và để tạo ra trong xã hội nhiều thứ bù nhìn, nhiều kẻ nịnh bợ và bọn tham nhũng mà thôi.
Nói tóm lại, Đảng cộng sản Việt Nam phát động "chống đa nguyên, đa đảng", "chống tự do tư sản hoá", "chống diễn biến hoà bình" (tức chống phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ), chống đàn áp, khủng bố, chống tham nhũng của quần chúng bằng báo chí, hội thảo, mít tinh, biểu tình, đình công - đấu tranh ôn hoà, không có võ trang - là đi ngược dòng lịch sử, không tuân thủ qui luật phát triển khách quan của xã hội, đã ra mặt độc tài chống lại yêu cầu, nguyện vọng về dân chủ tự do của quần chúng nhân dân, của dân tộc.
N. Chuyên chế độc tài: thách thức nghiêm trọng đối với dân tộc Việt Nam
Chính Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay đã biến mình trở thành một cản ngại lớn trên con đường phát triển đi đến văn minh của dân tộc Việt Nam, bất chấp sự phản kháng của quần chúng, quyết duy trì chuyên chế, độc tài, dựa vào bạo lực (quân đội, công an) như tất cả các chế độ độc tài trên thế giới để chà đạp lên nguyện vọng về dân chủ tự do của nhân dân và gây cho nhân dân biết bao tai hoạ khác. Nhưng những bài học của lịch sử luôn luôn sáng ngời: tất cả các thế lực độc tài, phát xít tàn bạo trên thế giới đều bị phủ định bởi sức mạnh áp đảo của nhân dân. Cuộc đấu tranh anh hùng đã đánh bại bọn độc tài quân phiệt khát máu của nhân dân Thái Lan hồi tháng 5/1992 vừa qua là một tấm gương sáng chói cho các dân tộc trên thế giới kể cả dân tộc Việt Nam.
Không phải đi ăn xin mà có dân chủ tự do được. Muốn có nó phải dám đấu tranh ngoan cường, bền bỉ, trừ phi cam tâm làm nô lệ.
Cả thế giới đều biết rằng quá trình kháng chiến giành độc lập dân tộc cũng là quá trình đấu tranh chống độc tài chuyên chế, phát xít tàn bạo, giành dân chủ tự do của nhân dân Việt Nam. Do đó sau thắng lợi của cách mạng (hơn 30 năm liên tục đấu tranh chính trị và võ trang), Đảng cộng sản Việt Nam lại thiếp lập, duy trì, củng cố chế độ chuyên chế, độc tài ở Việt Nam; đó là sự thách thức rất nghiêm trọng của Đảng cộng sản đối với nhân dân Việt Nam. Về những thách thức tương tự đó, trên thế giới đã có nhiều bài học:
Chính vì dựa vào bạo lực để tồn tại mà chính quyền mác-xít - chuyên chế độc tài phủ định tất cả ý kiến, quan điểm đối lập, lực lượng đối lập - ở Áp-ga-ni-xtan và Ê-ti-ô-pi đã gây ra cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài ở hai nước này dẫn đến hậu qủa cuối cùng là lực lượng võ trang của các đảng phái đối lập đã tấn công đến sào huyệt (thủ đô) của chánh quyền mác-xít độc tài ở hai nước nói trên và đã chiến thắng. Tổng thống mác-xít Áp-ga-ni-xtan - Na-gi-pu-la phải chạy vào cơ quan Liên Hiệp Quốc tại Ca-bun (thủ đô) để ẩn náu; còn Tổng thống mác-xít Ê-ti-ô-pi - M.H. Mariam thì chạy trốn sang phương Tây.
Rõ ràng, số phận bi đát luôn luôn dành sẵn cho bọn ngoan cố độc tài, tham quyền cố vị, đi ngược qui luật tiến hoá của lịch sử.
Nhìn theo vhiều dài của lịch sử, khác với sự đắc chí kiêu ngạo, không biết giựt mình và tự sám hối của Đảng cộng sản Việt Nam, người ta không thể không kinh ngạc khi biết rằng chính chuyên chính độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam đã gây nên biết bao thảm hoạ, tội ác đối với nhân dân Việt Nam suốt một quá trình cách mạng lâu dài của đất nước, dân tộc.
Khi cầm quyền, Đảng cộng sản Việt Nam coi công an, quân đội là công cụ riêng của Đảng dùng để đàn áp những ai có ý kiến, quan điểm khác với Đảng, được xem là "chống Đảng, chống cộng sản". Chớ công an, quân đội không phải là công cụ của chánh quyền cách mạng - chánh quyền của dân, vì dân, do dân.
O. Ý thức hệ cộng sản dẫn đến các cuộc đàn áp tôn giáo
Với ý thức hệ Mác-xít: duy vật chống duy tâm, vô thần chống hữu thần, Đảng cộng sản Việt Nam đã thi hành chánh sách khống chế, kềm kẹp thậm chí khủng bố đàn áp đẫm máu đối với các tôn giáo ở Việt Nam như : Cao Đài, Hoà Hảo, Công Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Phật Giáo,... với lý do tôn giáo là "hữu thần chống vô thần', "chống cộng sản", là những kẻ "phản động", "làm tay sai cho đế quốc". Bằng lực lượng võ trang nắm trong tay, Đảng cộng sản Việt Nam đã tiến hành những cuộc tảo thanh Cao Đài, Hoà Hảo tức tấn công, giết hại hàng loạt tín đồ và hàng giáo phẩm của hai đạo này trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp xâm lược (1945,46,47,48,49). Đối tượng tảo thanh lúc bấy giờ ở Miền Đông Nam bộ bao gồm các tỉnh: Tây Ninh, Gia Định (nay là TP Hồ Chí Minh), Thủ dầu một (Sông Bé), Biên Hoà (Đồng Nai), Bà Rịa (Bà Rịa-Vũng tàu), Chợ Lớn (Long An) là đồng bào tín đồ Cao Đài. Còn đối tượng tảo thanh ở Miền tây Nam Bộ bao gồm các tỉnh: Long Xuyên, Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang), Tạch Giá (Kiên Giang), Bạc Liêu (Minh Hải), Cần Thơ,...là đồng bào tín đồ Hoà Hảo.
Mặt trận liên quân B - mặt trận tảo thanh Cao Đài - ở Miền Đông Nam Bộ được thành lập (1946) với các lực lượng võ trang bao gồm các cho đội: 12, 13, 15, 22, 6, bộ đội Hoàng Thọ...lấy toà thánh Tây Ninh - trung tâm đầu não của lực lượng Cao Đài - làm mục tiêu tấn công. Chiến trận diễn ra ác liệt năm này sang năm nọ giữa lực lượng võ trang nói trên của Đảng cộng sản Việt Nam và lực lượng võ trang cao Đài có sự yểm trợ của quân đội Pháp; đồng thời cũng diễn ra các cuộc "tảo thanh" tín đồ Cao Đài ở khắp các ấp, xã thuộc các tỉnh Miền Đông Nam Bộ như: Tây Ninh, Gia Định (TP HCM), Thủ Dầu Một (Sông bé)...
Bằng cách tập hợp đồng bào đi phá hoại đường để bảo vệ vùng giải phóng thuộc Củ Chi - gọi là "khu 5" - Ban chỉ huy ra lịnh: ai có đạo đứng một bên, ai không có đạo đứng một bên; ai có đạo ở lại, ai không có đạo đi phá đường. Do vậy, hàng trăm người có đạo - toàn là tín đồ Cao Đài gồm nam, nữ, ông già, bà cả, thanh niên, trung niên - được điều động đến mé rừng rậm. Sau đó nhiều loạt súng liên thanh nổ liên tiếp với tiếng người kêu la gào thét kinh khủng. Thế là số phận bi thảm của đồng bào Cao Đài nói trên đã kết liễu. Thi hài của họ được vùi dập xuống các hầm đào sẵn ở rừng Làng và Sở cao su Me-sắc (thuộc xã Phú Mỹ Hưng, Củ Chi). Vào năm 1950, người ta đã phát hiện ở rừng Bời Lời (Trảng Bàng - Tây Ninh) có 5-7 hầm toàn sọ người. Hay như ở xã Vĩnh Lộc (thuộc Gò Vấp, Gia Định cũ), về sau này, hàng năm đều có ngày giỗ thống nhứt - giỗ những đồng bào tín đồ Cao Đài trong xã, ấp bị giết hàng loạt cùng một ngày bới các cuộc tảo thanh tàn bạo nói trên của Đảng cộng sản Việt Nam.
Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và 20 năm kháng chiến chống Mỹ xâm lược (1955-1975) bao gồm cả thời kỳ đất nước chia cắt thành 2 miền: Nam, Bắc (miền Bắc xã hội chủ nghĩa, miền Nam thuộc địa củ Mỹ), đồng bào tín đồ Công Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành ở miền bắc xã hội chủ nghĩa là đối tượng đàn áp quyết liệt của chánh quyền cộng sản; đặc biệt lúc Hiệp định đình chiến Giơ-ne-vơ (tháng 07/1954) qui định chia cắt tạm thời đất nước thành hai miền, được ký kết thì lập tức có hai triệu đồng bào tín đồ Công Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành ồ ạt di cư vào Nam sinh sống và để thoát khỏi "tai hoạ cộng sản". Do đó, đối với số đồng bào và hàng giáo phẩm của các tôn giáo nói trên còn ở lại miền Bắc xã hội chủ nghĩa suốt 20 năm (1955-1975) qủa là rất nặng nề, không khác gì cuộc sống ở một trại giam lớn.
Phật giáo Việt Nam với truyền thống yêu nước là tôn giáo có nhiều cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, chống độc tài, tham nhũng, đòi dân chủ tự do và hoà bình (đặc biệt ở Miền Nam Việt Nam) trong suốt thời kỳ Đế quốc Mỹ và tay sai thống trị. Nhưng sau khi Miền nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Phật Giáo lại trở thành đối tượng kềm kẹp, khống chế, trấn áp của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhiều người thuộc hàng giáo phẩm và tín đồ phật giáo bị qui chụp là "phản động", "chống cách mạng" và bị bắt bớ, giam cầm, quản thúc chỉ vì họ muốn được tự do trong cuộc sống, tự do tín ngưỡng, hành đạo, tự do nói lên quan điểm tư tưởng riêng của mình.
Với "ý thức hệ mác-xít, lập trường giai cấp vô sản", Đảng cộng sản Việt nam không những đố kỵ và áp bức các tôn giáo mà còn đố kỵ áp bức các dân tộc ít người: dân tộc người Hoa, người Khơ-me và nhiều sắc tộc khác.
Vào những năm 1956-1957, sau sai lầm cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức - chiến dịch tấn công vào nhân dân, nông dân và bản thân nội bộ Đảng - với chuyên chính độc tài dựa vào bạo lực, Đảng cộng sản Việt Nam lại lao vào tội lỗi khác là đàn áp, bắt bớ, tù đày hàng chục năm một số trí thức, văn nghệ sĩ, cán bộ đảng viên dám phát biểu ý kiến, quan điểm của mình, phê phán những sai trái trong sự lãnh đạo của Đảng cộng sản bằng văn học, nghệ thuật, bằng bài nói, bài viết của bản thân. "Vụ án nhân văn giai phẩm" 1956-1957 chính là sự đàn áp của Đảng cộng sản Việt Nam đối với những ai có quan điểm, tư tưởng khác với Đảng. Những văn nghệ sĩ, trí thức, cán bộ đảng viên có liên quan đến vụ án khi vào tù tuổi còn thanh xuân, nhưng đến khi ra tù thì tóc đã bạc phơ, già yếu. Rõ ràng, đối với Đảng cộng sản Việt Nam thấm nhuần ý thức hệ Mác-Lênin, ai ai cũng dễ dàng bị qui chụp là "kẻ chống Đảng, kẻ thù của Đảng" và tất nhiên, điều đó không thể không dẫn đến hậu qủa là ai ai cũng coi Đảng cộng sản Việt Nam là kẻ thù của chính họ.
P. Trong chiến tranh: rất hiếm cấp tướng hy sinh; trong hoà bình: đại tướng, trung tướng hy sinh dễ dàng. Do đâu ?
Điều đặc biệt quan trọng xảy ra trước và sau Đại hội lần thứ 6 của Đảng cộng sản VN (tháng 12/1986) là một loạt cấp tướng ( đại tướng, trung tướng) bị giết hại một cách bí mật và nhiều câu hỏi được đặt ra trong dư luận xã hội lúc bấy giờ, nhất là ở Thủ đô Hà Nội: kẻ sát nhân là kẻ nào ? bàn tay bí mật giết người từ đâu ? Bởi vì, chỉ trong một thời gian rất ngắn, liên tiếp cá hai đại tướng: Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn cùng ở vào một tình huống giống nhau - chuẩn bị nhận chức vụ mới (Bộ trưởng Quốc phòng) - cũng đều bị chết bất ngờ (ngộ độc). Trường hợp của Đại tướng Hoàng Văn Thái trước khi trút hơi thở cuối cùng đã nói với vợ ông rằng: "Người ta đã giết tôi", và vợ ông trước những người đến viếng thăm đã khóc thê thảm và kêu to lên rằng: "Người ta đã giết chồng tôi". Cái chết đột ngột của Đại tướng Lê Trọng Tấn cũng tương tự như trên (theo lời kể tỉ mỉ của hai vợ chồng ông Trung tướng đương chức ở Hà Nội - năm 1987).
Dĩ nhiên trước đó không lâu, một Đại hội đảng bộ toàn quân đã diễn ra trong bầu không khí căng thẳng của cuộc đấu tranh nội bộ chưa từng có đưa đến kết quả là hai uỷ viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt nam: Đại tướng Văn Tiến Dũng - Bộ trưởng quốc phòng và Đại tướng Chu Huy Mân - phó bí thư quân uỷ trung ương, đều thất cử, không được bầu vào cấp uỷ Đảng và đoàn đại biểu Đảng bộ toàn quân đi dự đại hội lần thứ 6 của Đảng cộng sản Việt Nam. Do đó, Đại tướng Hoàng Văn Thái được trung ương chỉ định làm Bộ trưởng Quốc phòng thay thế Văn Tiến Dũng (bị mất tín nhiệm nhiều) không may bị chết bất đắt kỳ tử và người được chỉ định lên thay ông là Đại tướng Lê Trọng Tấn, cũng chịu số phận bi thảm liền sau đó. Thật khủng khiếp và đáng kinh ngạc.
Sau 2 sự kiện đau buồn nói trên (tức sau đại hội 6 ĐCSVN) khoảng mấy tháng lại có thêm hai trung tướng: Đinh Đức Thiện và Trần Bình bị giết hại. Theo tin loan truyền thì Trung tướng Đinh Đức Thiện bị tai nạn ô tô mà chết, còn dư luận xã hội, kể cả gia đình, cán bộ quân sự thì cho rằng ông Đinh Đức Thiện không bị tai nạn ô tô mà bị bắn chết tại rừng Cúc Phương (Ninh Bình) khi ông đi săn thú. Dư luận còn nhấn mạnh: Ông Thiện chắc chắn bị một người bà con có quyền thế sát hại. Còn Trung tướng Trần Bình - Cục trưởng cục tình báo quân đội nhân dân Việt Nam bị bắn chết ngay trên đường phố thuộc quận 3 - thành phố Hồ Chí Minh; và sau đó độ mấy ngày, người con trai của ông cũng bị bắn chết tại khu vực nói trên.
Trước những sự kiện nghiêm trọng đó của đất nước, dư luận xã hội rất xôn xao, ầm ỉ; còn các cơ quan thông tin đại chúng: báo chí, đài phát thanh,... thì im hơi lặng tiếng, kể cả báo "Quân đội", "Hội cựu chiến binh Việt Nam" là cơ quan tổ chức có mối liên hệ trực tiếp với các nạn nhân nói trên. Bởi vì sự độc quyền lãnh đạo - độc tài - của Đảng cộng sản Việt Nam đòi hỏi tất cả phải được giữ kín, không được bình luận, bàn tán ồn ào. Tuy nhiên, áp lực đó không ngăn cản nổi sự quan tâm bức xúc của dư luận xã hội đi đến khẳng định rằng những sự kiện kể trên (2 uỷ viên bộ chính trị bị đánh rớt khỏi cương vị lãnh đạo và 2 đại tướng bị chết đột ngột, 2 trung tướng bị sát hại) là những sự kiện rất nghiêm trọng, chưa từng có trong lịch sử quân đội và ĐCSVN; nó có quan hệ hữu cơ bắt nguồn từ những mâu thuẩn sâu sắc trong nội bộ Đảng, toàn quân ở độ chín muồi dẫn đến làm nổ tung các mặt trong cuộc sống và hoạt động ít nhất ở một bộ phận đầu não của quân đội Việt Nam.
Sở dĩ không có thông tin đầy đủ và không thể có sự phân tích sâu sắc, công khai các sự kiện nói trên nhằm vạch trần bộ mặt của những tên khát máu, giết người trước ánh sáng dư luận là do trong thực tiễn ở Việt Nam không hề có dân chủ tự do (tự do ngôn luận, tự do báo chí,...); nó chỉ có trên giấy trắng mực đen (bản hiến pháp) thôi.
Sự độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được ghi trong Hiếp Pháp nước CHXHCN Việt Nam đã đặt Đảng cộng sản đứng trên Quốc Hội và Hiến Pháp, cho phép Đảng phủ định các quyền tự do ấy của công dân trong thực tiễn và tự do chà đạp Hiến Pháp được xây dựng lên bằng xương máu của nhân dân Việt Nam; vô hiệu hoá Quốc Hội, biến Quốc Hội thành một tổ chức bù nhìn, thành bộ máy bỏ phiếu cho Đảng cộng sản. Nhìn chung, các cơ quan, tổ chức khác như: chánh phủ, toà án, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng chỉ là công cụ, tay sai của Đảng mà thôi (bất cứ việc xét xử nào của toà án ở từng cấp đều phải làm đúng theo sự xét xử trước đó của cấp uỷ Đảng tức tuyên án công khai đúng như cấp uỷ Đảng đã tuyên án trước trong nội bộ).
Gần đây, điều đáng chú ý là nhà nước Việt Nam đã quan tâm nhiều hơn đến vấn đề người Việt Nam ở nước ngoài. Do đó, tại Hội nghị Việt kiều hồi tháng 2/1993, Thủ Tướng Võ Văn Kiệt - trước hàng trăm đại biểu đại diện cho khoảng 2 triệu người Việt kiều cư ngụ ở 70 nước trên thế giới mà đa số tập trung ở các nước tư bản phát triển nhất (G7 - nhóm các nước giàu), trong đó có trên 300.000 ngàn trí thức có trình độ đại học và trên đại học - đã nhấn mạnh: "Đoàn kết hoà hợp dân tộc là động lực phát triển đất nước".
Q. Trên cơ sở dân chủ bình đẳng, thực hiện hoà giải hoà hợp dân tộc
Rõ ràng lực lượng Việt kiều là tiềm lực lớn lao, là tài sản trí tuệ quí báu của dân tộc Việt Nam cần phải được phát huy cao độ vì sự phồn vinh, giàu có của Tổ quốc, vì ấm no hạnh phúc của nhân dân, vì một nước Việt Nam dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái, hiện đại, văn minh.
Vì vậy có vấn đề đặt ra là làm sao tạo được một môi trường tốt, phù hợp và bền vững cho đồng bào Việt kiều - những người đã từng sống và hoạt động ở môi trường tự do hoá về kinh tế và chính trị; môi trường của nền kinh tế thị trường (tư bản chủ nghĩa) và nền chính trị dân chủ, đa nguyên - tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Do đó, nhà nước Việt Nam không thể dừng lại ở việc ban hành một số chánh sách mang tính chất chiến thuật như: nhập cảnh, cư trú, đi lại, hoạt động kiều hối, xuất nhập khẩu, ngân hàng, tín dụng,... mà còn phải dám đi xa hơn nữa vào chiến lược lâu dài: cải cách kinh tế đi liền với cải cách chính trị, không những phải xây dựng một nền kinh tế thị trường và mở cửa mà còn phải xây dựng một nền chính trị đa nguyên - dân chủ - đa đảng. Đó là cơ sở, nền tảng vững chắc để thực hiện một cách đồng bộ, hài hoà, sự hoà giải, hoà hợp, đoàn kết dân tộc, tạo nên tính tự giác cao và tấm lòng hồ hởi, cởi mở của đông đảo đồng bào Việt kiều hướng về Tổ Quốc thân yêu, hội nhập thực sự với quê hương, dân tộc. Mặt khác, điều đó cũng nói lên rằng Việt Nam hội nhập vào thế giới, tiếp thu những giá trị của xã hội loài người không chỉ thuần túy về mặt kinh tế mà tiếp thu hoà nhập toàn diện (cả về kinh tế và chính trị). Sự hài hoà giữa môi trường thế giới (tự do hoá cả về kinh tế và chính trị) và môi trường trong nước (Việt Nam - tự do hoá không những về kinh tế mà cả về mặt chính trị) chắc chắn sẽ tạo ra sự an tâm phấn khởi không những trong đồng bào Việt kiều mà cả gần 70 triệu đồng bào trong nước (bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, nhiều sắc tộc, tôn giáo, nhiều khuynh hướng, quan điểm,...) khiến tất cả mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước đều cảm thấy bức bách phải dốc toàn lực tham gia xây dựng quê hương, Tổ quốc giàu mạnh, nhân dân ấm no, hạnh phúc.
Nếu Việt Nam chỉ mở cửa kinh tế và đóng kín cửa chính trị, chỉ đi có một chân (kinh tế), chớ không phải đi hai chân (kinh tế và chính trị) thì càng làm bộc lộ nổi cộm sự lạc hậu về chính trị của Việt Nam trước thế giới - lạc hậu không những so với các nước Châu Ấu, Châu Mỹ, Châu Á (kể cả các nước láng giềng như: Thái Lan, Cam-pu-chia) mà còn lạc hậu so với nhiều nước Châu Phi: An-giê-ri, Tu-ni-si, Ma-da-grát-xca, Nam Phi,...Tất nhiên cái gì lạc hậu, đi ngược qui luật tiến hoá thì chắc chắn sẽ bị đào thải, sụp đổ.
Hiện nay, không những 2 triệu đồng bào Việt kiều và gần 70 triệu đồng bào Việt Nam mà cả thế giới văn minh đều đòi hỏi Việt Nam phải cải cách toàn diện: cả kinh tế và chính trị. Đó là điều kiện không thể thiếu được cho sự hội nhập thực sự của Việt nam vào cộng đồng thế giới (tư bản chủ nghĩa) ngày nay; đồng thời đó cũng là điều kiện phải có để đồng bào Việt kiều, đồng bào cả nước hoà nhập thực sự với dân tộc, đất nước.
Chúng ta biết rằng: sở dĩ Trung Quốc đạt được những thành quả lớn lao suốt 14 năm cải cách kinh tế và mở cửa là nhờ có được một trong những yếu tố quan trọng - một đội ngũ chuyên gia giỏi từ các nước tiên tiến nhất: Mỹ, Nhật, Đức,...gồm khoảng 300-400 ngàn người cho một đất nước có khoảng 1,2 tỉ dân, có nghĩa là cứ khoảng 3000 người dân Trung Quốc thì có một chuyên gia giỏi nước ngoài phục vụ. Tất nhiên nhà nước Trung Quốc phải chi một số tiền thích đáng cho yêu cầu quan trọng nói trên. Trong khi đó, tại sao Việt Nam chúng ta với dân số 70 triệu người, lại không biết sử dụng trên 3000,000 trí thức Việt kiều của mình cũng gồm giáo sư, tiến sĩ, chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực cho lợi ích dân tộc mình ?
Đảng cộng sản Việt nam có dám làm một cuộc cách mạng về tư tưởng của bản thân mình, có dám "lột xác" không? có dám vứt bỏ ý thức hệ mác-xít giáo điều, lỗi thời không ? có dám vứt bỏ tư tưởng quan điểm, thành kiến cũ rích đối với đồng bào Việt kiều ("theo tư bản chủ nghĩa") không?
R. Hiện giờ, ai theo tư bản ?
Với đầu óc khách quan, dám nhìn thẳng vào thực tế, Đảng cộng sản Việt Nam phải thừa nhận rằng bằng chính sách đổi mới, hàng ngày, hàng giờ Việt Nam luôn luôn hướng về chủ nghĩa tư bản (Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Ý, Canada, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Thuỵ Điển, Ần Độ, Hồng Kông, Indonexia,...), chứ không phải hướng về Bắc Triều Tiên, Cuba của chủ nghĩa xã hội; có nghĩa là trên thực tế, Đảng cộng sản Việt Nam đã đồng hoá về quan điểm, tư tưởng với đồng bào Việt kiều đang sinh sống ở 70 nước tư bản chủ nghĩa trong nhiều thập kỷ qua. Từ thực tế đó cho thấy giữa Đảng cộng sản Việt Nam và đồng bào Việt kiều đã không còn tồn tại cơ sở của sự đối đầu, chia rẽ, ngăn cách nữa mà nó đang chuyển sang một cơ sở mới để đôi bênhoà nhập vào nhau; thật sự hoà giải và chân thành đoàn kết với nhau vì lợi ích tối cao của dân tộc, đất nước. Vì vậy, khi kêu gọi đồng bào Việt kiều: "xoá bỏ mặc cảm, xoá bỏ hận thù, hướng tới tương lai", Đảng cộng sản Việt Nam phải là người trước tiên thực hiện điều đó, mở rộng vòng tay để đoàn kết, hoà giải, hoà hợp dân tộc trên cơ sở thực sự dân chủ tự do và bình đẳng - hoà hợp có nội dung, có điều kiện chớ không thể là khẩu hiệu suông.
Thật là khó hiểu khi ở nước sở tại, đồng bào Việt kiều không những tự do hoạt động kinh tế mà còn tự do hoạt động chính trị, tự do tham gia các đảng phái, tổ chức chính trị, xã hội, tự do viết báo, hội thảo, mít tinh, biểu tình, tự do nói lên ý kiến, tư tưởng, quan điểm riêng của mình đối với mọi vấn đề trong xã hội; nhưng khi về nước mình (Việt Nam) thì có thể được tự do hoạt động kinh tế ở chừng mực nhất định nào đó; còn về chính trị thì hoàn toàn không có tự do kể cả phát biểu ý kiến, quan điểm riêng của mình có thể trái với lãnh đạo. Bởi vì, ở Việt Nam, những ý kiến, quan điểm của bất cứ người nào ngược với quan điểm lập trường của Đảng cộng sản Việt Nam thì nhất định sẽ bị lên án và bị trấn áp ngay do sự độc quyền lãnh đạo của Đảng tức nền chuyên chế độc tài đã được khẳng định ở đây từ hơn 60 năm qua (1930-1993).
Chuyên chế độc tài đã từng bị lịch sử lên án, hoàn toàn không hề là ước mơ, niềm hy vọng của nhân dân quần chúng và tất nhiên nó không có sức thuyết phục; nhưng tại sao lại dựa vào nó để thực hiện hoà giải, hoà hợp và đoàn kết dân tộc? Cơ sở cốt lõi của vấn đề phải là: dân chủ, tự do và bình đẳng thật sự. Vì vậy, chừng nào còn chưa thiết lập được nền dân chủ tự do đúng nghĩa của nó ở Việt nam thì chừng ấy vẫn chưa xoá được mặc cảm, thành kiến,... chưa có thể hoà giải, hoà hợp dân tộc được. Nếu chỉ bằng những khẩu hiệu suông hay bằng những chiến thuật kinh tế cụ thể thì sứ mạng hoà giải, hoà hợp và đoàn kết dân tộc sẽ khó hoàn thành.
Môi trường sinh sống và hoạt động hàng ngày đã giúp đồng bào Việt kiều hiểu rõ thế nào là một nước văn minh, hiện đại. Một nước không thiết lập được một nền dân chủ tự do và bình đẳng thật sự thì làm sao có thể gọi đó là nước văn minh, hiện đại, tiên tiến ?
Việt Nam rất muốn hội nhập vào thế giới văn minh, nhưng đồng thời cũng rất không muốn trở thành một nước văn minh - nước có nền dân chủ đa nguyên - và quyết duy trì chế độ chuyên chế độc tài dựa vào vũ lực, bạo lực. Thật là nghịch lý và khó hiểu.
Tóm lại, Liên Xô cũ và Đông Ấu cũ - được xây dựng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin - đã tan rã; đó là sự khuyến cáo đang thép về sự phá sản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Bởi vì đây không phải là một sự thất bại tạm thời của một cuộc cách mạng mà là sự sụp đổ của một "học thuyết cách mạng" đã từng là "ngọn đèn pha" soi đường đi lên CNXH và CNCS. Cái chính là "đèn pha" đã tắt lịm.
Sự sụp đổ của một chế độ độc tài về chính trị và kinh tế nói trên đã mở ra kỷ nguyên cả thế giới bao gồm Liên Xô cũ, Đông Ấu cũ, Mông Cổ, Cam-pu-chia và nhiều nước khác đi vào con đường tự do hoá về kinh tế và tự do hoá về chính trị - thực hiện nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền chính trị đa nguyên - dân chủ đa đảng - theo đúng qui luật vận động của thế giới đương thời. Đó chính là những giá trị phổ cập nhất của xã hội loài người ngày nay.
S. Thập kỷ 60-70 đến cuối 80 - chủ nghĩa xã hội đích thực; cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 - chủ nghĩa tư bản đích thực
Trước sự chuyển động lớn lao ấy của thế giới, Việt Nam thực hành chính sách đổi mới qùe quặt: chỉ đổi mới kinh tế, phản đối đổi mới chính trị: lấy tự do hoá kinh tế để củng cố độc tài chuyên chế, khẳng định độc tài, phản dân chủ là "đúng đắn", "hợp lòng dân"; lấy sự phát triển và phồn vinh của kinh tế thị trường làm thành quả của chủ nghĩa xã hội, coi đó mặc nhiên là chủ nghĩa xã hội. Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, của những thập kỷ 60,70,80 là đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, tiêu diệt kinh tế cá thể, tư nhân, tiêu diệt giai cấp người bóc lột người; còn chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của thập kỷ cuối 80 và đầu 90 hiện nay là đuề huề, thoả hiệp, hợp tác, thậm chí liên minh giai cấp nhằm phục hồi chủ nghĩa tư bản - phục hồi kinh tế cá thể, tư nhân, tư bản chủ nghĩa trong nước và cho tư bản nước ngoài vào đầu tư kinh doanh kiếm lời; đặc biệt đã dựa hẳn vào các nước tư bản phát triển nhất để "xây dựng chủ nghĩa xã hội"? Do đó, Việt Nam giống như cá đã "mắc câu", càng vùng vẫy thì "mắc câu" càng sâu tức càng khẳng định "kiên trì chủ nghĩa xã hội" thì càng đi sâu vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản mà không có sức mạnh nào cưỡng lại được.
Tất nhiên, chấp nhận và phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa của Việt Nam đã tạo điều kiện thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nền chính trị đa nguyên - dân chủ đa đảng. Bởi vì qui luật vận động khách quan vẫn là: kinh tế nào, chính trị ấy - kinh tế độc tài đi liền với chính trị độc tài; kinh tế tự do đi liền với chính trị tự do; chớ không thể kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa lại đi liền với chuyên chính độc tài vô sản được.
Cả thế giới tư bản chủ nghĩa nhiệt liệt hoan nghinh Việt Nam đổi mới và mở cửa vì Việt Nam đang tiến mạnh vào quỹ đạo kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do đó, nhiều nước tư bản sẵn sàng viện trợ, cung cấp tín dụng cho Việt nam, đầu tư vào Việt nam để cho Việt Nam tiến bước vững chắc trên con đường tư bản chủ nghĩa không những về kinh tế mà cả về chính trị. Bởi vì các nước tư bản nói trên đi vào Việt Nam bằng hai chân: kinh tế và chính trị, không những bằng đô la, máy móc thiết bị tối tân, hàng hoá, chuyên gia giỏi,... mà có cả vấn đề dân chủ, nhân quyền. Cho nên đừng có ai đó ngây thơ nghĩ rằng "họ" chỉ được quyền đến Việt Nam bằng kinh tế thôi. Kinh tế luôn luôn là tiền đề của chính trị. Sức mạnh toàn diện về kinh tế, chính trị và quân sự của thế giới tư bản cũng sẽ tác động rộng khắp trên các lĩnh vực của Việt nam, thúc đẩy Việt nam đổi mới triệt để, sâu sắc, chớ không phải đổi mới nửa vời như hiện nay.
Dựa vào vũ lực để củng cố chuyên chế độc tài đồng thời uy hiếp một dân tộc suốt 30 năm cầm súng chống ngoại xâm, sự thách thức ấy liệu sẽ dẫn đến hậu quả gì? Các chế độ độc tài thường xô đẩy đất nước vào thảm hoạ nội chiến. Gương Áp-ga-ni-xtan, Ê-ti-ô-pi, Nam Phi,...vẫn còn sờ sờ đó.
Điều tủi nhục cho dân tộc Việt Nam - dân tộc anh hùng lừng danh khắp thế giới - cuối cùng lại là dân tộc bị kềm kẹp nặng nề nhất, không có được một chút quyền dân chủ tự do (ngôn luận, báo chí, tư tưởng, quan điểm, mít tinh, biểu tình, đình công...)
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên của Liên Hiệp Quốc, là nước đã ký vào bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Nhưng Việt Nam không thực hiện bản tuyên ngôn ấy và không hề cho nhân dân Việt Nam biết rõ Bản Tuyên Ngôn, bưng bít suốt mấy mươi năm. Điều đó chỉ ra rằng Đảng cộng sản và chánh phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam đã biểu thị sự khinh thường của mình đối với Liên Hiệp Quốc và với cả dân tộc Việt Nam, với nhân dân thế giới. Vậy Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có xứng đáng là thành viên của Liên Hiệp Quốc không ?
Mặc dù luôn luôn tự xưng là "Đảng tiền phong, giải phóng dân tộc", nhưng suốt mấy mươi năm cầm quyền của Đảng là mấy mươi năm Đảng đã tước đoạt các quyền dân chủ tự do cơ bản của nhân dân, giam hãm nhân dân trong mê muội, tối tăm; từ đó đã mặc nhiên tạo nên sự khiếp sợ Đảng rộng khắp cả nước kể cả trong cán bộ đảng viên lâu năm, không khác gì sự khiếp sợ của nhân dân đối với các triều đại vua chúa ngày xưa. Cho nên trước những sai trái của Đảng, nhiều người lặng thinh không dám có ý kiến vì quá sợ Đảng. Đó là hậu quả tai hại nhất, nghiêm trọng nhất của chế độ độc tài, độc đảng ở Việt Nam.
Rõ ràng, Đảng cộng sản Việt Nam với hơn 60 năm lãnh đạo cách mạng và do không biết tự sám hối, nhạy cảm trước biến đổi của lịch sử, ngày nay đã tự biến mình trở thành chướng ngại lớn trên con đường phát triển đi đến văn minh của dân tộc Việt Nam.
Dân chủ tự do đối với loài người, mọi dân tộc trên thế giới như cơm ăn, nước uống, không khí để thở, tức con người muốn sống phải có dân chủ tự do; chớ không phải chỉ có những người ở phương Tây (Anh, Pháp, Đức,...) mơí cần có dân chủ tự do. Nhân dân Châu Ấu, Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Á, Châu Úc đều bức bách đòi hỏi phải có dân chủ tự do vì đó là sự sống. Chỉ có ở nước nào mà chế độ độc tài, phát xít được thiết lập thì ở đó mới không có dân chủ tự do và nhân dân phải sống lầm than, tủi nhục, đầy lo âu, sợ hãi.
Phải chăng Đảng cộng sản Việt nam đả kích mạnh dân chủ phương Tây để tiếp tục tước đoạt quyền dân chủ tự do của nhân dân Việt Nam hay đã đến lúc phải kịp thời thức tỉnh, sám hối và mau chóng hoàn trả lại cho nhân dân các quyền dân chủ tự do thật sự của họ ?
Nguyễn Hộ
In the World of Human Trafficking, Vietnam Remains a 'Supply Country'
While visiting Ho Chi Minh City (more known as Saigon) last December I asked a group of well-educated young women for their thoughts on Vietnamese women being sold abroad. Their answers were surprisingly tempered.
"Not everyone is going to end up as a prostitute or badly treated by her husband," said Tuyen Nguyen, a 19-year-old who is attending college and planning to be a doctor. "I know this one girl who came back wealthy. It's true, she's one of the lucky ones, but still, it's a better chance than staying home."
According to sources from UNICEF and Vietnam's Ministry of Justice as well as other groups, as many as 400,000 Vietnamese women and children have been trafficked overseas, most since the end of the Cold War. That's around 10 percent of trafficked women and children worldwide. They are smuggled to Cambodia, China, Hong Kong, Macau, Malaysia, Taiwan, the Czech Republic -- and, to a lesser extent, the United States -- for commercial sexual exploitation.
"Still, if your parents and siblings are starving, you've got to do something," observed Thuy Le, a young woman in her mid-20s. "It's the right thing to do."
"It's the girl in the countryside who would do this kind of thing," said another woman, a publicist for a cosmetic company. "No one in the city would go. I mean, it's hard work in the rice field. Besides, who is to say their Vietnamese husbands won't beat them just like their Korean or Taiwanese one?" Her friends murmured in agreement.
Unfortunately, not all trafficked women end up in real marriages, even if their paperwork says so. According to Huy Phan, who is part of a group of Vietnamese Americans trying to help victims of trafficking, "the scheme is, the brothel or mafia finances a man to go to Vietnam to buy a wife. But the marriage is a ruse, and the girl ends up as a prostitute or indentured servant when she gets to Taiwan. It's a way to legalize trafficking."
In June, the U.S. State Department released the "Victims of Trafficking and Violence Protection Act of 2000: Trafficking in Persons Report." Vietnam was classified as a "tier two" country, meaning that the government of Vietnam, according to the report, makes some effort to eliminate the problem but "does not fully comply with the minimum standards for the elimination of trafficking."
In March 2004, a Taiwanese tried to sell three young Vietnamese women on E-bay. The starting bid was $5,400. Vietnamese living abroad protested, and E-Bay quickly pulled the auction page. But the language used on that page, along with the images of the three young, hapless women smiling to the camera, bespoke of modern-day slavery: "Products will be delivered only to Taiwan," the page said.
A typical trafficking scenario in Saigon goes something like this: A group of men come in from a foreign country, Taiwan or Korea, perhaps, and are chauffeured to a designated bar where young women and teenage girls await. The girls are lined up. The men pick and choose their brides, and pay around $5,000 to $10,000 dollars depending on the "quality" of the bride, which depends largely on whether she is a virgin. Soon these so-called brides are taken to unknown destinies. Their families back in the rural areas receive around $500 dollars for the sale. The rest goes to middlemen and to grease the legal machine.
Girls and women may also be promised jobs in Cambodia, Laos or China, only to end up as sex slaves once they cross the border. Recent raids in Cambodian brothels came up with Vietnamese girls as young as 5 years old. Young boys, too, are bought, and are highly prized in China, especially for families that have no children and want to adopt.
Many problems help perpetuate this form of exploitation. First are rising population pressures. There are now 82 million people in Vietnam. Two out of three Vietnamese are under 35, and there are an estimated 1.5 million abortions each year. The rural-urban gap is widening. Peasants trying to survive become easy prey.
Second is corruption. Government officials can be bribed to look the other way or, worse, actively assist the sale of these women by stamping their exit visas.
Third, and most important, Vietnamese people themselves have developed a lackadaisical attitude about the plight of trafficked women. After all, when there are approximately half a million prostitutes in Vietnam trying to make ends meet, who cares if a few hundred thousand more are plying their trade abroad?
Thien-Tam Tran, another Vietnamese American activist, remembers a scene in the airport in Taipei, Taiwan. Three Vietnamese girls were waiting to be taken away by gangsters. "I asked them if they wanted help but they wouldn't talk. They were very afraid. When the gangsters showed up the girls finally realized what would happen to them and started to weep. One girl, about 17, held onto me. But it was too late."
In Vietnam, self-sacrifice is still perceived as the highest Confucian virtue, but few seem to notice that to sell or induce one's own offspring into slavery is an absolute evil -- and highly un-Confucian. "Some women and girls are raped by their captors, husband, and/or male members of the family," Tran notes sadly.
Unless human rights become a real dialogue in Vietnam and the urban rural gap is seriously addressed, the nation seems fated to play a role that many activists working against human trafficking refer to as "a supply country."
Andrew Lam
Related articles:
Vietnamese Alliance to Combat Trafficking
The Last Letter Of A Vietnamese Bride In Korea
Vietnam Among Top Countries for Human Trafficking Says New U.S. Report
The Plight of Vietnamese Women
Human Trafficking in Vietnam
Stopping an 'Epidemic' -- Vietnamese Priest Reaches Out to Sex Trafficking Victims
Vietnamese Trafficking Victims Suffer Abuses in Taiwan
A Call for Help: Vietnamese Caregivers in Taiwan are Abused
14 Days to Find A Husband
Thursday, 23 July 2009
Massacre in Hue city
Tet Mau Than celebration was a celebration in mourning as thousands of their relatives were massacred in the history-rich city of Vietnam: Hue's ancient city.
To the world's media "The Tet offensive" is only a fighting incident in a long continuous war. The casualties from both sides were tabulated, and more details were released, and later were overwhelmed by more non-interrupting news of the war.... However, to the Vietnamese, the Hue massacre was unequivocally considered as a normal casualty of war.
Humanity had suffered tens of millions of losses of lives during the Second World War. Why the free world has particularly paid special attention to the victims of the Holocaust? Because these victims are not the incidents of the War. They are victims of a premeditated system equipped with careful researches and sophisticated disposing instruments. These murderers are the evildoers of the human race. The International War Crime Tribunal of Nuremberg did not just condemn the act as the War Crime but also as the Crime against Humanity.
The first few days of 1968, the city of Hue was a bloody battlefield that spanned 26 days. The impartial ammunitions did not stop at the soldiers only...
But the impartial ammunitions could not explain the death of thousands that were herded outside of the city to be clubbed to death and buried alive in mass graves. These hapless victims are not the victims of war but was rather victims of a series cold-blooded murders.
Who were responsible for this massacre and who were the executioners?
The Communist government of Vietnam, where their members were directly involved in this killing or witnessed the massacre, have the responsibility in answering these questions; not just to the families of the victims but also to the whole Vietnamese people and the World Court.
The Tet Offensive was a huge failure for the North on every count except one. Much of the VC that took part in the “uprising” that virtually no one joined, were killed by US, South Vietnamese, Australian and Allied troops, local militias, the people of Saigon and throughout the South. And that’s the only part of the Communist North’s plan that worked out. The incompetent in Western Governments, military, press and Left radicals did the rest.
The North wanted to eliminate the VC to consolidate their own power. That’s the classic infighting, murderous rivalry and implosion of Communism, folks. They only change through murder, plot, lies, and inertia, outside pressures or collapse. Thirty five battalions of VC attacking hundred of targets simultaneously, all ending with most VC killed or captured. Not one objective achieved. Some Communist success. What would be failure? The VC dying twice?
The VC captured the National Radio station to broadcast the signal to “general uprising” but the power was out. And there was no uprising. Gee, imagine if you staged a rebellion and nobody came? Nope, most people in the South felt about a Communist future the same way as most sane people do with a working economy and some semblance of government, no matter how corrupt. They don’t want it. People get that way with folks who cut off the heads of village elders and school teachers and leave them on pikes. They probably weren't too crazy about the napalm, either. The Vietnamese people sometimes got it from several sides at once.
Yep, the war was often a hideous drag, but not as much as the ‘peace’ was, virtually all unreported, undocumented and anonymous. Thus the biggest movement of refugees in history was of the Vietnamese after the fall of Saigon. Almost three million escaping, with around one million dying in the South China Sea.
Commemorating deceased ancestors and family members who were dead has been a tradition in Vietnam since time immemorial. On the date of their death on the lunar calendar, their living descendants or members of their families hold service in commemoration of them at home or sometimes at pagoda. Offerings -- usually food, fruit, wine along with flowers and incense sticks - are presented to them on the altar. The relatives pray for them and show their love, respect and gratitude prostrating in front of the altar.
The tradition also goes beyond the limit of family members and ascendants. On the 15th day of the 7th month every lunar year, Vietnamese Buddhists conduct rites that are more elaborated at pagodas. The congregation prays for the dead in general, particularly for the dead without offspring, soldiers killed in action, war victims... The rites may last a week or even 15 days in pre-war time.
Such tradition is the same in Hue City, the ancient royal capital of Vietnam. People in this city, however, have more to do with the war dead. In the 5th moon each lunar year (around late June to early July), every Buddhist family in the city holds commemorating services at the family altar as well as in all pagodas with offerings, to pray for innocent civilians killed by the French invaders in the late 19th century. On the 23rd day of the fifth month, the year At Dau (or the Year of the Rooster 1885), the French forces conducted a fierce counter attack against the Vietnam royal army who defended the capital city. Unscrupulous French fire power killed about 2,000 to 3,000 soldiers and residents.
Although the date is the 23rd day of the 5th month, people are free to hold service for the dead on any date to their family's convenience, providing that it is within the 5th month. If you visit someone in Hue during the 5th month, you will certainly be invited to such feasts, probably every day if you have a lot of friends and relatives living in this beautiful city.
Besides the Fifth Month Commemoration, for the last 28 years, Buddhists in Hue have also held services in the first month of the lunar year for war victims in the 1968 Tet Offensive. (Tet is the Lunar New Year celebration in Vietnam).
In the darkness of the 1968 Tet's Eve, North Vietnamese Communist Army units conducted a surprise attack at Hue City, while the two sides were in a truce that had been agreed upon previously. South Vietnamese Army units defending the city were not in good positions to fight as they expected that the enemy would abide by their 4-day cease-fire promise, as they did in the preceding years. On the first day of the new year - the Year of the Monkey - Hue City streets were filled with NVA soldiers in baggy olive uniforms and pithy hats.
The communist cadres set up the provisionary authorities. The first thing they did was call all SVN soldiers, civil servants of all services, political party members, and college students, to report to the "revolutionary people's committee." Those who reported to the communist committee were registered in control books then released with promise of safety.
After a few days, they were called to report again, then all were sent home safe and sound. During three weeks under NVA units' occupation, they were ordered to report to the communist committee three or four times. In the late half of January 1968, the US Marines and the South Vietnamese infantry conducted bloody counterattacks and recaptured the whole city after many days of fierce fighting that forced their enemy to withdraw in several directions.
Meanwhile, those who were called to report the last time to the communist authorities disappeared after the Marines and South Vietnamese Army units liberated Hue. Most of the missing were soldiers in non-combat units and young civilians. No one knew their whereabouts.
In late Feb.1968, from reports of Vietnamese Communist ralliers and POWs, the South Vietnamese local authorities found several mass graves. In each site, hundreds of bodies of the missing were buried. Most were tied to each other by ropes, electric wires or telephone wires. They had been shot or beaten or even stabbed to death.
The mass graves shocked the city and the whole country. Almost every family in Hue has at least one relative, close or remote, who was killed or still missing. The latest mass grave found in the front yard of a Phu Thu district elementary school in May 1972, contained some two hundred bodies under the sand. They had been slaughtered during one-month occupation of an NVA unit. Sand left no sign of a mass grave below until a 3rd-grader dug the ground rather deep for a cricket.
Besides more than two thousand persons whose deaths were confirmed after the revelation of the mass graves, the fate of the others, amounted to several thousands, are still unknown.
The 1968 massacre in Hue brought a sharp turn in the common attitude toward the war. A great number of the pre-'68 fence sitters, anti-war activists, and even pro-Communist people, took side with the South Vietnamese government after the horrible events. After April 30, 1975 when South Vietnam fell into the hand of the Communist Party, it seems that the number of boat people of Hue origin takes up a greater proportion among the refugees than that from the other areas.
Since April 1975, the Vietnamese Communist regime deliberately moved many families of the 68-massacre victims out of Hue City. People in the city however, still commemorate them every year. Because the people are mingling the rites with Tet celebrations, Communist local authorities have no reason to forbid them.
Most Americans knew well about the My Lai massacre of US Army Lieutenant Calley where from 200 to 350 persons were killed. The '68-massacre in Hue however, has not been covered at the same proportion by the English language media. When a Tet Offensive documentary film by South Vietnamese reporters was shown to the American audience of more than 200 US Army officers in Fort Benning, Ga. in November 1974, almost 90 percent of them hadn't been informed of the facts. Many even said that had they known the savage slaughter at the time, they would have acted differently while serving in Vietnam.
The US Navy has a warship named "Hue City." It is not known how many of her sailors realize that the city she carries as a name suffered so much. Would it be a good idea to have a rite once a year in the Tet season on the "Hue City" for the dead whom the US Marines were fighting for in February 1968?
Animosity should not be handed down to younger generations, but our descendants must be taught the truth. War crimes must not be forgotten, and history is not written by one-sided writers.
Accompanied by a sudden artillery and mortar barrage and flares casting a metallic glow, two North Vietnamese battalions stormed across lightly defended bridges and lotus-choked moats into the former Vietnamese imperial capital of Hue before dawn on January 31, 1968.
It was part of nearly simultaneous surprise attacks by Communist military forces against nearly every significant city or town in South Vietnam during the lunar new year, or Tet, holiday. The Tet Offensive, as the nationwide attacks would become known, shocked the U.S. government and public into reconsidering and eventually terminating the U.S. military effort in Vietnam.
Hue was occupied for twenty-five days before the North Vietnamese were ousted. During that time, the troops and the political officers who came with them ruled over large parts of the city. One of the central objectives of the occupation, according to a written plan prepared in advance, was to "destroy and disorganize" the administrative machinery that the South Vietnamese regime had established since Vietnam was divided by international agreement in 1954. The effort to root out "enemy" functionaries, according to the plan, was to extend "from the province and district levels to city wards, streets and wharves." The political officers arrived with a carefully prepared "target list" of 196 places, organized on a block-by-block basis, to be given priority attention, including U.S. and South Vietnamese offices and the homes of the officials who worked there, as well as the homes of those who were deemed to be leading or cooperating with their efforts, including foreigners. Once in charge, the occupation forces set about expanding its target lists with the assistance of local sympathizers.
So many were killed. Le Van Rot, the owner of the most popular Chinese soup restaurant in the city, was the government block chief of his area. Four armed men, two from Hue and two from North Vietnam, came to his shop and arrested him, accusing him of being a spy. They bound his arms behind his back with wire and began to tug him toward the door. When he resisted, one of them put a bullet through his head.
Then there was Pham Van Tuong. He worked part-time as a janitor at the government information office. Four men in black pajamas came to his house, calling on him by name to come out of the bunker where he and his family had taken refuge. But when he did come out, along with his five-year-old son, his three-year-old daughter, and two of his nephews, there was a burst of gunfire. All five were shot to death.
Dr. Horst Gunther Krainick was a German pediatrician and professor of internal medicine who had worked for seven years with teams of Germans and Vietnamese to establish a medical school at Hue University. Krainick stayed in his university apartment after the fall of the city, believing he and his wife would not be harmed. Unknown to them, they were on the original target list. On the fifth day of the occupation, an armed squad arrived and put the Krainicks and two other German doctors into a commandeered Volks-wagen bus. Their bodies were found later in a potato field, all victims of an executioner's bullets.
The same day, North Vietnamese troops came in force to the Roman Catholic cathedral, where many people had taken refuge from the fighting. Four hundred men were ordered out, some by name and others apparently because they were of military age or prosperous appearance. When the group was assembled, the political officer on the scene told people not to fear; the men were merely being taken away temporarily for political indoctrination. Nineteen months later, three defectors led U.S. soldiers to a creekbed in a double canopy jungle ten miles from Hue where the skulls and bones of those who had been taken away had lain ever since. Those killed included South Vietnamese servicemen, civil servants, students, and ordinary citizens. The skulls revealed they had been shot or brained with blunt instruments.
Altogether, South Vietnamese authorities counted about twenty-eight hundred victims of deliberate slaughter during the Tet Offensive in Hue. The fate of some was known immediately. The bodies of others emerged later from mass graves in nearby jungles or the coastal salt flats. Like those taken from the cathedral, they had been shot to death, bludgeoned, or buried alive.
For several thousand years, Vietnamese Lunar New Year has been a traditional celebration that brings the Vietnamese a sense of happiness, hope and peace. However, in recent years, It also bring back a bitter memory full of tears. It reminds them the 1968 bloodshed, a bloodiest military campaign of the Vietnam War the North Communists launched against the South.
The "general offensive and general uprising" of the north marked the sharp turn of the Vietnam War. Today there have been a great number of writings about this event. However, it seems that many key facts in the Communist campaign are still misinterpreted or neglected.
In the mid-80, living in Saigon after being released from the Communist "re-education camp," I read a book published in the early 1980's in America about the story of the 1968 Tet Offensive. It said that the North Vietnamese Army supreme command had imitated one of the greatest heroes of Vietnam, King Quang Trung, who won the most spectacular victory over the Chinese aggressors in the 1789 counter-attack - in planning the 1968 operations.
The book quoted King Quang Trung's tactic of surprise. He let the troops celebrate the 1789 Tet Festival one day ahead so that he could launch the attacks on the first three days of the lunar new year while the Chinese troops were still feasting and not ready to organize their defense.
Those who claimed the similarity between the two campaigns certainly did not know the whole truth, but jumped into conclusion with wild imagination after learning that the North Vietnamese attacking units also celebrated Tet "one day ahead" before the attacks.
In fact, the Tet Offensive broke out on the Tet's Eve - in the early morning of January 30, 1968 at many cities of Central Vietnam, such as Da Nang and Qui Nhon, as well as cities in the central coastal and highland areas, that lied within the Communist 5th Military Region.. The other cities to the south that included Saigon, were attacked 24 hours later at the small hours of January 31. Thus the offensive lost its element of total surprise that every tactician has to respect.
But It surprised me that some in the American media were still unaware of such tragic story.
The story started some 5 months previously. On August 8, 1967, the North Vietnam government approved a lunar calendar specifically compiled for the 7th time zone that covers all Vietnam, replacing the traditional lunar calendar that had been in use in Asia for hundreds of years.
That old calendar was calculated for the 8th time zone that Beijing falls right in the middle. It was accepted in general by a few nations such as China, Vietnam, Taiwan, Hong Kong and somewhat in Japan and Korea, mostly for traditional celebrations and religious purposes. South Vietnam used this calendar. With common cultural origin, these countries needed not have their own calendar, particularly it has not been used for scientific and administrative activities.
The North Vietnam new lunar calendar differs from the common calendar about some dates, such as the leap months of certain year (1984 and 1987) and the Tet's Eve of the three Lunar New Years: Mau Than (1968), Ky Dau (1969) and At Suu (1985). South Vietnam celebrated the first day of the Mau Than lunar year on January 30, 1968, while North Vietnam celebrated it on Jan 29, 1968.
It was obviously that the North Vietnamese leaders had ordered the offensives to be launched on the night of the first day of Tet to take the objectives by total surprise. By some reason, the North Vietnamese Army Supreme Command was not aware of the fact that there were different dates for Tet between North and South Vietnam. Therefore, most NVA units in the Communist 5th Military Region - closer to North Vietnam - probably used North Vietnamese calendar, and conducted their attacks in the night between Jan 29 and 30, while their comrades farther to the south attacked in the night from Jan 30 to 31.
Many in the intelligence branch of the South Vietnamese Armed Forces were well aware of the reason why the Communist forces launched their attacks at two different dates. Information from sources among NVA prisoners of war and ralliers about the new calendar of North Vietnam should have been neglected by the American side. The information was also available in broadcast from Hanoi Radio.
In military operations, nothing is more important than surprise. So the Communist forces lost their advantage of surprise on more than half of the objectives. Had the Vietnamese Communists conducted their coordinated attacks at the same H-hour, South Vietnam would have been in much more troubles.
The large scale offensive resulted in drastic human and morale losses of the Communist forces. However, the offensive caused an extreme negative effect in the American public opinion and boosted the more bitter protests against the war.
Until lately, the Ha Noi propaganda and political indoctrination system has always claimed the Tet offensive their military victory, and never insisted on their victory over the morale of the American public.. Obviously, Ha Noi leaders won a priceless victory at an unintended objective.
In South Vietnam, on the contrary, the offensive created an unexpected attitude among the people.
After the first few hours of panic, the South Vietnamese armed forces reacted fiercely. There were hundreds of stories of brave soldiers and small units who fought their enemies with incredible courage..
A large number of those who were playing fence-sitters especially in the region around Hue City then took side with the nationalist government.
Several mass graves were found where thousands unarmed soldiers, civil servants and civilians were shot, stabbed, or with skulls mashed by clubs and buried in strings of ropes, even buried alive. A large number of VC-sympathizers who saw the horrible graves, undeniable evidence of the Communist barbarian crimes, changed side.
The most significant indication of such attitude could be observed from the figures of young volunteers. to join the army. After the first wave of Communist attacks, a great number of youth under draft age - below 20 years old - voluntarily enrolled in the army for combat units, so high that thousands of young draftees were delayed reporting for boot camps.
On the Communist side, the number of ralliers known as "chieu hoi" increased about four times. The offensive planners apparently expected the so-called "people upraising," so most secret cells were ordered to emerge. When the attacking units were crushed, cell members had to flee to the green forests. Thus the Tet offensive helped South Vietnam neutralize much of the Communist infrastructure before the Phoenix Campaign got rid of many others.
Unfortunately, such achievements were nullified by the waves of protests in America. As in any other developing countries, nobody takes heed of a speech from a Vietnamese official. But the same thing from an American statesman or even a protester could be well listened to and trusted. So information from the Western media produced rumors that the USA was about to sell off South Vietnam to the Communist blocks.
The rumors were almost absolutely credible to the Vietnamese - particularly the military servicemen of all ranks - because of another hearsay that until now have a very powerful impact on the mind of a great number of the South Vietnamese. There have been no poll on the subject, but it was estimated that more than half of the soldiers strongly believed that "it was the Americans who helped the Communist attack the South Vietnamese cities."
Hundreds of officers from all over South Vietnam asserted that they "saw" NVA soldiers moving into the cities on US Army trucks, or American helicopters transporting supplies to NVA units. In Saigon, most people accepted the allegation that the Americans deliberately let the Communists infiltrate the capital city because the American electronic sensor defense system around Saigon was able to detect things as small as a mouse crossing the hi-tech fences.
Another hearsay among the South Vietnamese military ran that "none of the American military units or installation and agencies - military or civilian - was under Communist first phase of the offensive (February) except for the US Embassy. And only after nearly three weeks did the US Marines engaged in the battle of Hue, in the old Royal Palace" The allegation seemed to be true. The American combat units, however, were fighting fierce battles in phase 2 (May 1968) and phase 3 (September 1968).
Similar rumors might have been of no importance if they were in America.But in Vietnam, they did convince a lot of people. In the military, they dealt deadly blows on the soldiers' morale. Their impacts still lingered on until the last days of April 1975.
The truth in the rumors did not matter much. But the fact that a great numbers of the fighting men strongly believed the rumors turned them into a deadly psychological weapon which very few or maybe none has ever properly treated in writings about the Vietnam War. Most authors studied the war at high echelons, but neglected the morale of the buck privates and the effect of the media in the Vietnam War. No military plan even by top strategists in the White House could succeed if half of the privates believed that they would be defeated before long. So why should they go on fighting?
Information sources concerning the Tet Mau Than are ample to find from the American and South Vietnam side. However, most of materials coming from Hanoi are carefully prepared propaganda that does not reflect the truth. In fact, Vietcong intentionally present the Mau Than event as a civilian "uprising" to oppose the government of South Vietnam. More over, they bluntly deny the massacres and skilfully conceal the names of the perpetrators.
From the memoirs "Victory at Mau Than" (Chien Thang Mau than) by Le Minh printed in Vietnam 10 years ago, it clearly illustrates the chronically deceitful image of Vietcong. Le Minh who ranked Colonel was one of the four top officers in charge of the attack of Hue. The commander in chief was General Tran Van Quang, Le Chuong was Political Commissar and Generals Nam Long and Le Minh were field commanders.
An excerpt from "Victory at Mau Than" shows that the circle of power in Hanoi had carefully plotted out their offensive plan in Mau Than; to attack Hue immediately after the truce agreement that they had signed.
"The preparation tasks for the battle fields are going well until February 67, Headquarters called upon one of us three (Mr. Tran Van Quang, Mr. Le Chuong or myself) to go North to receive the order. Mr Chuong went. I thought the order would include the instruction to overtake Hue in 5 days (as planned by the "Zone Party Committee"), I therefore carry on with what had been planned. A month later Mr. Chuong returns and informs that the new order is to attack Hue simultaneously with the general uprising in whole South Vietnam. The timing was "around Tet". This infers that the attack will be for many days, everything has changed completely, things will have to be planned carefully and differently."
Considering later official documents, it was July 1967 that the Communist Politburo in Hanoi started to plan for the Mau Than offensive.
Another passage of Le Minh's memoirs shows their plan to set-up a puppet government in Hue that consists of their cadres. "To set up government in the whole province of Thua Thien and Hue city; from there we form the People's Democratic and Peace Alliance in Hue. At the moment, there is plan to invite Professor Le Van Hao, Venerable Thich Don Hau and Mrs. Nguyen Dinh Chi and a few other well-known people in Hue."
In addition, Vietcong's top secret documents, were later seized, contradict with Hanoi's alibis. The findings include layout plans for the Tet offensive such as a document prepared by the "Province Party Committee" Binh Tri Thien dated October 1, 1967 (photograph of document included). Apart from plans to attack the document order to assassinate, and by all means kill all "reactionaries groups". These facts reject the cover up themes and reasoning by Vietcong that the victims massacred at Hue were only to settle personal vendettas.
In short, the revelation from Le Minh's memoirs and official Vietcong's documents exhibits the fact that many members of the Communist government in Vietnam owe it to the people the answers to the killings in Tet Mau Than and these war criminals must be brought forward to justice.
The Tet Mau Than event was a turning point for the war in Vietnam that led to the fall of South Vietnam. From a military tactical viewpoint, the offensive was a complete failure. The Vietcong propaganda used to indoctrinate their fighting force about the "general uprising of the people in the South that would overtake the government" never materialized. Almost all the NVA and Vietcong force were eradicated or suffered major losses. In addition, the local VC underground in the South was forced to expose their cover in order to link up with the main force.
Viet cong's sympathizers such as Duong Quynh Hoa, Do Trung Hieu, Nguyen Dac Xuan, Hoang Phu Ngoc Tuong, Ton That Lap, etcA^? had to escape along with the washed-out NVA. The left over guerrillas who were later uprooted by the Phoenix program would have otherwise facilitated the control of South Vietnam after the April 1975. Incidentally, the NVA were fawned upon by the so called "Ba muoi thang tu" (persons of April 30) who would not hesitate to speak ill of their neighbors to receive favors from the winning Communist. From a strategic viewpoint, the Tet offensive was a major success for the Communist. Thanks to the modernization of media report of the Tet offensive, the anti-war movement in the United States has grown from a few odd young people standing at a street corner to massive demonstrations right on the steps of the White House.
The war seen on television and magazines by the American public has given an impression that the American were losing against the omnipotent NVA and Vietcong guerrillas and were not able to predict the Tet offensive. The repeated negative messages on the media about losses of lives and billions of dollars wasted for the futile of war in Southeast Asia have changed the attitude of the proud and invincible Americans. Thousands of hippies flooded the streets of America with slogan "Make love not war". From there, Pham Van Dong, war time Prime Minister of Vietnam, did not hesitate to grab the opportunity to publicly state that they were winning the war right on the streets of Washington.
The Americans came to Vietnam with a worthy mission - to help protect the South Vietnamese from the aggressive Communist from the North and to setup an outpost for the free world. Ironically, with hundreds of thousands of troops in South Vietnam, the painted picture of Americans in Vietnam was altered from helpers to invaders by the proclamation of the American public that the war was a whole futile campaign. Meanwhile, Ho Chi Minh also conspired to portray the image of the Americans in Vietnam as the aggressors and of his army as the liberators to people of the South from the American invaders. In reality he was after the expansion of Communism. Conversely since the establishment of the proletarian regime in North Vietnam and there has been a general movement by the people of Vietnam against the tyranny of dictatorship during and after the anti-French war. Even today, the lives of Vietnamese are still being tightly clamped down under Communism, as human rights are ruthlessly trampled down more than ever. The thrive for freedom and democracy and respect for human rights by the Vietnamese is continuing and will not stop until the eradication of the Communist tyrants and until life can be meaningfully lived, until democracy and human rights are respected throughout the land.
The Tet offensive should be reviewed especially for those younger than 35 as this group consists of more than 50 per cent of the population and knows very little about what happened outside of the partial information recorded by American and Communist media.
Looking back at the news covered on American media and world wide the picture being seen the most is the picture of General Nguyen Ngoc Loan who shot a Viet cong captured in Saigon; the picture of the American Embassy attacked by Vietcong guerrillas and the picture of the Hue Citadel occupied by Vietcong for almost a month. Ironically, people of the world were not informed about the fact that the Vietcong shot by General Loan had massacred a whole family where the head of the family had been the General's subordinate. People were never informed about the difficulties faced by the security force to defend the American Embassy from the Vietcong's commandos. Nobody paid attention to loss of a whole Marine company of the Republic of Vietnam Armed Forces (RVNAF) in just an attempt to cross a street to regain the flagpole by the Citadel in Hue. Neither was the decapitation of nine family members of Lieutenant Colonel Tuan in the outskirts of Saigon mentioned. And worse of all, the massacre of Hue, where thousands of unarmed citizens were clubbed to death and buried alive, were treated as minor news and practically escape world's attention.
The examples above just illustrate a few flaws in the world's media as far as the coverage of the Hue massacre and the whole Vietnam war in general. The world' media have reported only half of the truth in the intention to serve some short term political agenda. It is necessary to mention this fact for the following reason:
1- To provide any independent researcher with information so that they do not have to restrict themselves with only lopsided data which will shape inaccurate conclusions.
2- To provide a reason for any scholar to carry out their research based on a more complete selection of historical facts.
3- Due to the lack of historical facts from the Republic of South Vietnam side, it is necessary to provide an accurate edited version by collecting and assessing information from the eye witnesses. We cannot continue to blame others for their partial view of the war if we remain silent. The publication of the "History of the Vietnamese Marine Corps Army of the Republic of Vietnam" was a first effort toward this goal.
4- To identify the essence of the struggle for freedom by our people, the nature of the power elite of Communist Vietnam, the intricacy of our relationship with friends and foes, our national interests versus foreigners interests, the transient nature of foreign intervention through deceptive rhetoric.
5- To remind those involved in the struggle for freedom to be on the constant alert to maintain an objective view on news reported from the media.
In retrospect, people may condemn the Vietcong for violating the truce during Tet. The only period that the general population could find a peaceful time to be with their family. However, worldwide history has shown that agreements were made to be broken and Vietcong were not the only ones doing it. Death and losses during the Tet offensive were tremendous and were inevitable things that happened during wartime. The paramount issue drawn from the Tet offensive was the brutal nature of their campaign and this reflects the barbaric rationality the Communist leaders. The beheading of nine family members, including children, in Hanh Thong Tay (near Saigon) and many similar gory executions are still in the minds of the eyewitnesses. The massacre of thousands of people in Hue was not a result of personal vendettas but was rather a strategy of terror based on the Marxist-Leninist-Stalinist determination to eliminate their enemies using "revolutionary violence". The picture of victims trapped in cages floated on rivers, decapitated, organs removed are normal Vietcong practices throughout their guerrilla warfare, to name a few. Or to imprison almost half of the population in the South, immediately after 1975 conquest, as this half are considered as enemy of the state. It is the cruelty of this regime and their fanatic policies that have caused major setbacks to both the mentality of the people and the economic growth of the country.
The damage done since 1975 far outweighed the physical destruction caused by the war. The collective effort and the tenacity of Vietnamese population, under the so called "clear-sighted leadership of the Party", has not helped the country moved forward. The brutality of the policies can be clearly extracted from Ho Chi Minh's assertion " we are willing to burn the whole Annamese cordillera (Truong Son) to liberate the South if need be."
During the period between 1979 and 1981 throughout a number of Human Rights conferences, in concert with the Human Rights activist Ginetta Sagan, the self-reproached anti-war activist Joan Baez and many International amnesty organization around the world publicly criticized the wickedly cruel policies of Communist Vietnam against their imprisonment of all South Vietnam servicemen/women in the so called "re-education camps". "It is a normal treatment that the losers should get from the winners" was the blunt defense used in Communist responses. Such reactionary defense did not gain the brutal totalitarian regime any friends.
It was not necessary to disclose all cruel treatments that Hanoi has bestowed upon its own troops - a doze of its own medicine - but a few incidents during the Tet offensive cannot be overlooked. People never questioned the reasoning behind the second offensive in May 1968 where the offensive side consisted of crippled remnant force from the first offensive back in January. These feeble attacks were promptly overcome and did not create any worldwide attention. By perusing the facts on the battle fields during the Tet offensive the answer would prick out using just common sense: Communist leaders have relentlessly sacrificed the lives of thousands of young men. For those few men that survived the loss of the first offensive wave, their lives again were forfeited in the second offensive wave. As far as Hanoi was concern, it was wise to have to continue to support the crippled demoralized remnant force. Worse than that it was not proper to have this losing force rejoined the newly recruited as their battle stories may affect the fighting spirit of those that had not been there. To kill two birds with one stone. We can now understand why NVA soldiers were chained to their tanks or artilleries and why each "bo doi" (North Vietnamese Infantry man) was given 5000 piastres (Dong) so they could spend once South Vietnam was completely occupied by the North. The mother-of -all wicked strategies: Coercion, Deception and death traps.
Since the era of "Doi Moi" Communist leaders have reiterated the "forget the past" policy. Some American veterans, now politicians, also advocate "forget the past, look forward to the future" slogan. Interestingly, it is hard for history to be forgotten when people are constantly reminded to forget the past. Those that died and were massacred during Tet Mau Than have remained silent. The war invalids from both sides of Vietnam did not have much of a voice either. Materially, properties have unjustly been confiscated and transferred within the corrupted hands under the post '75 slogan "thrive fast, thrive strong toward Socialism" and the Doi Moi slogan "Market Economy under Socialist Direction". Therefore the history that was requested to be forgotten was a convenient history that was applied only to fit the agenda of the Machiavellian totalitarians. Forget not the triumph over the American Imperialist, the leadership role of the Party and the slogan " fight Americans to save our nation" (Chong My cuu nuoc) can now be conveniently disposed - as "we need the American dollars". The fate for the "Forever friendship with our great Soviet allies" rhetoric can also be predicted. "Must we also forget about the free world" where freedom and democracy are the keys to the success in the Global Economy. And Thou shall collaborate with those economic tyrants to slowly change the political system, where freedom and democracy will permeate down to the destitute mass.
The deep wounds of the war have begun to heal for its participants. The review of Mau Than is not meant to regurgitate the ugliness of the war to the later generations. Looking back at Tet Mau Than, as a historical reference of a period in the war, to reflect and compare it with contemporary facts so a solution can be arrived for the future. What conclusions can one draw from based on the solicitous open arm policy toward the Americans today and the determination to sacrifice lives during the war then. Was the lives sacrificed, under the leadership of Communist Vietnam, in vain? Is there a difference in the image of an American teaching English, assisting in animal husbandry in Vietnam back then and the image of an American returning to Vietnam today to provide humanitarian in response to the much Communist implorations? Those South Vietnamese that had received training in the US were accused of being agents of CIA. Meanwhile those receive training from the same source today are considered as front runners of the revolution.
In conclusion, the mentioning of Tet Mau Than and the war instigated by Communist Vietnam is not more than a reminder of the ruthlessness of the Communist villains. More than half a century has passed since the Second War ended and the Jewish Holocaust has been frequently mentioned by world's media and the search for the war criminals are still continued. These exercises are preventive methods for any future atrocity recurrence, a sound reasoning. The toll of the war, labeled liberation of South Vietnam, which was really the result of Communist expansion was tabulated to close to 3 millions dead and injured according to the latest statistics from Hanoi. These statistics did not include those killed during the Land Reform (1954), the misadventure into Cambodia in the late 70's and those that died at sea in search of freedom (Boat people exodus) and those that died in concentration camps as well as those living corpse that were released from the gulags. Not to mention the dispersion of the population in a Vietnam classified as the one of the poorest and most backward country in the world.
The intensity of damage caused by the Communist in Vietnam exceeds the toll of the Jews killed by the Nazi as the destruction in Vietnam has spanned more than two generations. The Vietnam war ended near a quarter century ago, Tet Mau Than happened 30 years ago, the wickedly cruel Communist government is still here, the Communist ringleaders are still here; though their outer appearance is now "Doi Moi", no more "non coi, dep rau" (tire sandals, expedition helmet). General Le Kha Phieu a cunning, longstanding Communist member and just got elected as the First Secretary of the Communist party of Vietnam. Recently, in December 1997, Ton That Lap, the Hue massacre informer, led a group of performers to Canada and Australia to polish the image of the regime.
It is the utmost importance that our generation and the future generation aware is made of the Communist brutality during Tet Mau Than.
The city of Hue is one of the saddest cities of our earth, not simply because of what happened there in February 1968, unthinkable as that was. It is a silent rebuke to all of us, inheritors of 40 centuries of civilization, who in our century have allowed collectivist politics-abstractions all-to corrupt us into the worst of the modern sins, indifference to inhumanity.
What happened in Hue should give pause to every remaining civilized person on this planet. It should be inscribed, so as not to be forgotten, along with the record of other terrible visitations of man's inhumanity to man which stud the history of the human race.
Hue is another demonstration of what man can bring himself to do when he fixes no limits on political action and pursues incautiously the dream of social perfectibility.
What happened in Hue, physically, can be described with a few quick statistics. A Communist force which eventually reached 12,000 invaded the city the night of the new moon marking the new lunar year, January 30, 1968. It stayed for 26 days and then was driven out by military action.
In the wake of this Tet offensive, 5,800 Hue civilians were dead or missing. It is now known that most of them are dead. The bodies of most have since been found in single and mass graves throughout Thua Thien Province which surrounds this cultural capital of Vietnam.
Such are the skeletal facts, the important statistics. Such is what the incurious word knows any thing at all about Hue, for this is what was written, modestly by the word's press. Apparently it made no impact on the world's mind or conscience. For there was no agonized outcry. No demonstration at North Vietnamese embassies around the world.
In a tone beyond bitterness, the people there will tell you that the world does not know what happened in Hue or, if it does, does not care
The Battle
The Battle of Hue was part of the Communist Winter-Spring campaign of 1967-68. The entire campaign was divided into three phases:
Phase I came in October, November, and December of 1967 and entailed "coordinated fighting methods," that is, fairly large, set- piece battles against important fixed installations or allied concentrations. The battles of Loc Ninh in Binh Long Province, Dak To in Kontum Province, and Con Tien in Quang Tri Province, all three in the mountainous interior of South Vietnam near the Cambodian and Lao borders, were typical and, in fact, major elements in Phase I.
Phase II came in January, February, and March of 1968 and involved great use of "independent fighting methods," that is, large numbers of attacks by fairly small units, simultaneously, over a vast geographic area and using the most refined and advanced techniques of guerrilla war. Whereas Phase I was fought chiefly with North Vietnamese Regular (PAVN) troops (at that time some 55,000 were in the South), Phase II was fought mainly with Southern Communist (PLAF) troops. The crescendo of Phase II was the Tet offensive in which 70,000 troops attacked 32 of South Vietnam's largest population centres, including the city of Hue.
Phase III, in April, May, and June of 1968, originally was to have combined the independent and coordinated fighting methods, culminating in a great fixed battle somewhere. This was what captured documents guardedly referred to as the "second wave". Possibly it was to have been Khe Sanh, the U.S. Marine base in the far northern corner of South Vietnam. Or perhaps it was to have been Hue. There was no second wave chiefly because events in Phases I and II did not develop as expected. Still, the war reached its bloodiest tempo in eight years then, during the period from the Battle of Hue in February until the lifting of the siege of Khe Sanh in late summer.
American losses during those three months averaged nearly 500 killed per week; the South Vietnamese (GVN) losses were double that rate; and the PAVN-PLAF losses were nearly eight times the American loss rate.
In the Winter-Spring Campaign, the Communists began with about 195,000 PLAF main force and PAVN troops. During the nine months they lost (killed or permanently disabled) about 85,000 men.
The Winter-Spring Campaign was an all-out Communist bid to break the back of the South Vietnamese armed forces and drive the government, along with the Allied forces, into defensive city enclaves. Strictly speaking, the Battle of Hue was part of Phase I rather than Phase II since it employed "co-ordinated fighting methods" and involved North Vietnamese troops rather than southern guerrillas. It was fought, on the Communist side, largely by two veteran North Vietnamese army divisions: The Fifth 324-B, augmented by main forces battalions and some guerrilla units along with some 150 local civilian commissars and cadres.
Briefly the Battle of Hue consisted of these major developments:
The initial Communist assault, chiefly by the 800th and 802nd battalions, had the force and momentum to carry it across Hue. By dawn of the first day the Communists controlled all the city except the headquarters of the First ARVN Division and the compound housing American military advisors. The Vietnamese and Americans moved up reinforcements with orders to reach the two holdouts and strengthen them. The Communists moved up another battalion, the 804th, with orders to intercept the reinforcement forces. This failed, the two points were reinforced and never again seriously threatened.
The battle then took on the aspects of a siege. The Communists were in the Citadel and on the western edge of the city. The Vietnamese and Americans on the other three sides, including that portion of Hue south of the river, determined to drive them out, hoping initially to do so with artillery fire and air strikes. But the Citadel was well built and soon it became apparent that if the Communists' orders were to hold, they could be expelled only by city warfare, fighting house by house and block by block, a slow and costly form of combat. The order was given.
By the third week of February the encirclement of the Citadel was well under way and Vietnamese troops and American Marines were advancing yard by yard through the Citadel. On the morning of February 24, Vietnamese First Division soldiers tore down the Communist flag that had flown for 24 days over the outer wall and hoisted their own. The battle was won, although sporadic fighting would continue outside the city. Some 2,500 Communists died during the battle and another 2,500 would die as Communists elements were pursued beyond Hue. Allied dead were set at 357.
The Finds
In the chaos that existed following the battle, the first order of civilian business was emergency relief, in the form of food shipments, prevention of epidemics, emergency medical care, etc. Then came the home rebuilding effort. Only later did Hue begin to tabulate its casualties. No true post-attack census has yet been taken. In March local officials reported that 1,900 civilians were hospitalized with war wounds and they estimated that some 5,800 persons were unaccounted for.
The first discovery of Communist victims came in the Gia Hoi High School yard, on February 26 ; eventually 170 bodies were recovered.
In the next few months 18 additional grave sites were found, the largest of which were Tang Quang Tu Pagoda (67 victims), Bai Dau (77), Cho Thong area (an estimated 100), the imperial tombs area (201), Thien Ham (approximately 200), and Dong Gi (approximately 100). In all, almost 1,200 bodies were found in hastily dug, poorly concealed graves.
At least half of these showed clear evidence of atrocity killings: hands wired behind backs, rags stuffed in mouths, bodies contorted but without wounds (indicating burial alive). The other nearly 600 bore wound marks but there was no way of determining whether they died by firing squad or incidental to the battle.
The second major group of finds was discovered in the first seven months of 1969 in Phu Thu district-the Sand Dune Finds and Le Xa Tay-and Huong Thuy district-Xuan Hoa-Van Duong-in late March and April. Additional grave sites were found in Vinh Loc district in May and in Nam Hoa district in July.
The largest of this group were the Sand Dune Finds in the three sites of Vinh Luu, Le Xa Dong and Xuan 0 located in rolling, grasstufted sand dune country near the South China Sea. Separated by salt-marsh valleys, these dunes were ideal for graves. Over 800 bodies were uncovered in the dunes.
In the Sand Dune Find, the pattern had been to tie victims together in groups of 10 or 20, line them up in front of a trench dug by local corvee labour and cut them down with submachine gun (a favourite local souvenir is a spent Russian machine gun shell taken from a grave). Frequently the dead were buried in layers of three and four, which makes identification particularly difficult.
In Nam Hoa district came the third, or Da Mai Creek Find, which also has been called the Phu Cam death march, made on September 19, 1969. Three Communist defectors told intelligence officers of the 101st Airborne Brigade that they had witnessed the killing of several hundred people at Da Mai Creek, about 10 miles south of Hue, in February of 1968. The area is wild, unpopulated, virtually inaccessible. The Brigade sent in a search party, which reported that the stream contained a large number of human bones.
By piecing together bits of information, it was determined that this is what happened at Da Mai Creek: On the fifth day of Tet in the Phu Cam section of Hue, where some three-quarters of the City's 40,000 Roman Catholics lived, a large number of people had taken sanctuary from the battle in a local church, a common method in Vietnam of escaping war. Many in the building were not in fact Catholic.
A Communist political commissar arrived at the church and ordered out about 400 people, some by name and some apparently because of their appearance (prosperous looking and middle-aged businessmen, for example). He said they were going to the "liberated area" for three days of indoctrination, after which each could return home.
They were marched nine kilometres south to a pagoda where the Communists had established a headquarters. There 20 were called out from the group, assembled before a drumhead court, tried, found guilty, executed and buried in the pagoda yard. The remainder were taken across the river and turned over to a local Communist unit in an exchange that even involved banding the political commissar a receipt. It is probable that the commissar intended that their prisoners should be re-educated and returned, but with the turnover, matters passed from his control.
During the next several days, exactly how many is not known, both captive and captor wandered the countryside. At some point the local Communists decided to eliminate witnesses: Their captives were led through six kilometres of some of the most rugged terrain in Central Vietnam, to Da Mai Creek. There they were shot or brained and their bodies left to wash in the running stream.
The 101st Airborne Brigade burial detail found it impossible to reach the creek overland, roads being non-existent or impassable. The creek's foliage is what in Vietnam is called double-canopy, that is, two layers, one consisting of brush and trees close to the ground, and the second of tall trees whose branches spread out high above. Beneath is permanent twilight. Brigade engineers spent two days blasting a hole through the double-canopy by exploding dynamite dangled on long wires beneath their hovering helicopters. This cleared a landing pad for helicopter hearses. Quite clearly this was a spot where death could be easily hidden even without burial.
The Da Mai Creek bed, for nearly a hundred yards up the ravine, yielded skulls, skeletons and pieces of human bones. The dead had been left above ground (for the animists among them, this meant their souls would wander the lonely earth forever, since such is the fate of the unburied dead), and 20 months in the running stream had left bones clean and white.
Local authorities later released a list of 428 names of persons whom they said had been positively identified from the creek bed remains. The Communists' rationale for their excesses was elimination of "traitors to the revolution." The list of 428 victims breaks down as follows: 25 per cent military: two officers, the rest NCO's and enlisted men; 25 per cent students; 50 per cent civil servants, village and hamlet officials, service personnel of various categories, and ordinary workers.
The fourth or Phu Thu Salt Flat Finds came in November, 1969, near the fishing village of Luong Vien some ten miles east of Hue, another desolate region. Government troops early in the month began an intensive effort to clear the area of remnants of the local Communist organization. People of Luong Vien, population 700, who had remained silent in the presence of troops for 20 months apparently felt secure enough from Communist revenge to break silence and lead officials to the find. Based on descriptions from villagers whose memories are not always clear, local officials estimate the number of bodies at Phu Thu to be at least 300 and possibly 1,000.
The story remains uncompleted. If the estimates by Hue officials are even approximately correct, nearly 2,000 people are still missing. Re-capitulation of the dead and missing
After the battle, the GVN's total estimated civilian casualties resulting from Battle of Hue 7600
Wounded (hospitalized or outpatients) with injures attributable to warfare -1900
Estimated civilian deaths due to accident of battle -844
First finds-bodies discovered immediately post battle, 1968 -1173
Second finds, including Sand Dune finds, March-July, 1969 (est.) -809
Third find, Da Mai Creek find (Nam Hoa district) September, 1969 -428
Fourth Finds-Phu Thu Salt Flat find, November, 1969 (est.) -300
Miscellaneous finds during 1969 (approximate) -100
TOTAL YET UNACCOUNTED FOR 1946
[1] SEATO: South East Asia Treaty Organization.
[2] PAVN: People's Army of Vietnam, soldiers of North Vietnam Army serving in the South, number currently 105,000.
[3] PLAF: People's Liberation Armed Force, Formerly called the National Liberation Front Army.
Communist Rationale
The killing in Hue that added up to the Hue Massacre far exceeded in numbers any atrocity by the Communists previously in South Vietnam. The difference was not only one in degree but one in kind. The character of the terror that emerges from an examination of Hue is quite distinct from Communist terror acts elsewhere, frequent or brutal as they may have been.
The terror in Hue was not a morale building act-the quick blow deep into the enemy's lair which proves enemy vulnerability and the guerrilla's omnipotence and which is quite different from gunning down civilians in areas under guerrilla control. Nor was it terror to advertise the cause. Nor to disorient and psychologically isolate the individual, since the vast majority of the killings were done secretly. Nor, beyond the blacklist killings, was it terror to eliminate opposing forces.
Hue did not follow the pattern of terror to provoke governmental over-response since it resulted in only what might have been anticipated-government assistance. There were elements of each objective, true, but none serves to explain the widespread and diverse pattern of death meted out by the Communists.
What is offered here is a hypothesis which will suggest logic and system behind what appears to be simple, random slaughter. Before dealing with it, let us consider three facts which constantly reassert themselves to a Hue visitor seeking to discover what exactly happened there and, more importantly, exactly why it happened. All three fly in the face of common sense and contradict to a degree what has been written. Yet, in talking to all sources-province chief, police chief, American advisor, eye witness, captured prisoner, hoi chanh (defector) or those few who miraculously escaped a death scene-the three facts emerge again and again.
The first fact, and perhaps the most important, is that despite contrary appearances virtually no Communist killing was due to rage, frustration, or panic during the Communist withdrawal at the end. Such explanations are frequently heard, but they fail to hold up under scrutiny. Quite the contrary, to trace back any single killing is to discover that almost without exception it was the result of a decision rational and justifiable in the Communist mind. In fact, most killings were, from the Communist calculation, imperative.
The second fact is that, as far as can be determined, virtually all killings were done by local Communist cadres and not by the ARVN troops or Northerners or other outside Communists. Some 12,000 ARVN troops fought the battle of Hue and killed civilians in the process but this was incidental to their military effort. Most of the 150 Communist civilian cadres operating within the city were local, that is from the Thua Thien province area. They were the ones who issued the death orders.
Whether they acted on instructions from higher headquarters (and the Communist organizational system is such that one must assume they did), and, if so, what exactly those orders were, no one yet knows for sure.
The third fact is that beyond "example" executions of prominent "tyrants", most of the killings were done secretly with extraordinary effort made to hide the bodies. Most outsiders have a mental picture of Hue as a place of public executions and prominent mass burial mounds of fresh-turned earth. Only in the early days were there well-publicized executions and these were relatively few. The burial sites in the city were easily discovered because it is difficult to create a graveyard in a densely populated area without someone noticing it. All the other finds were well hidden, all in terrain lending itself to concealment, probably the reason the sites were chosen in the first place.
A body in the sand dunes is as difficult to find as a seashell pushed deep into a sandy beach over which a wave has washed. Da Mai Creek is in the remotest part of the province and must have required great exertion by the Communists to lead their victims there. Had not the three hoi chanh led searchers to the wild uninhabited spot the bodies might well remain undiscovered to this day. A visit to all sites leaves one with the impression that the Communists made a major effort to hide their deeds.
The hypothesis offered here connects and fixes in time the Communist assessment of their prospects for staying in Hue with the kind of death order issued. It seems clear from sifting evidence that they had no single unchanging assessment with regard to themselves and their future in Hue, but rather that changing situations during the course of the battle altered their prospects and their intentions.
It also seems equally clear from the evidence that there was no single Communist policy on death orders; instead the kind of death order issued changed during the course of the battle. The correlation between these two is high and divides into three phases. The hypothesis therefore is that as Communist plans during the Battle of Hue changed so did the nature of the death orders issued. This conclusion is based on overt Communist statements, testimony by prisoners1 and hoi chanh, accounts of eyewitnesses, captured documents and the internal logic of the Communist situation.
Thinking in Phase I was well expressed in a Communist Party of South Vietnam (PRP) resolution issued to cadres on the eve of the offensive:
"Be sure that the liberated ... cities are successfully consolidated. Quickly activate armed and political units, establish administrative organs at all echelons, promote (civilian) defence and combat support activities, get the people to establish an air defence system and generally motivate them to be ready to act against the enemy when he counterattacks..."
This was the limited view at the start - held momentarily. Subsequent developments in Hue were reported in different terms. Hanoi Radio on February 4 said: "After one hour's fighting the Revolutionary Armed Forces occupied the residence of the puppet provincial governor (in Hue), the prison and the offices of the puppet administration... The Revolutionary Armed Forces punished most cruel agents of the enemy and seized control of the streets... rounded up and punished dozen of cruel agents and caused the enemy organs of control and oppression to crumble..."
During the brief stay in Hue, the civilian cadres, accompanied by execution squads, were to round up and execute key individuals whose elimination would greatly weaken the government's administrative apparatus following Communist withdrawal. This was the blacklist period, the time of the drumhead court. Cadres with lists of names and addresses on clipboards appeared and called into kangaroo court various "enemies of the Revolution."
Their trials were public, usually in the court-yard of a temporary Communist headquarters. The trials lasted about ten minutes each and there are no known not-guilty verdicts. Punishment, invariably execution, was meted out immediately. Bodies were either hastily buried or turned over to relatives. Singled out for this treatment were civil servants, especially those involved in security or police affairs, military officers and some non-commissioned officers, plus selected non-official but natural leaders of the community, chiefly educators and religionists.
With the exception of a particularly venomous attack on Hue intellectuals, the Phase I pattern was standard operating procedure for Communists in Vietnam. It was the sort of thing that had been going on systematically in the villages for ten years. Permanent blacklists, prepared by zonal or inter-zone party headquarters have long existed for use throughout the country, whenever an opportunity presents itself.
However, not all the people named in the lists used in Hue were liquidated. There were a large number of people who obviously were listed, who stayed in the city throughout the battle, but escaped. Throughout the 24-day period the Communist cadres were busy hunting down persons on their blacklists, but after a few days their major efforts were turned into a new channel.
Hue: Phase II
In the first few days, the Tet offensive affairs progressed so well for the Communists in Hue (although not to the south, where party chiefs received some rather grim evaluations from cadres in the midst of the offensive in the Mekong Delta) that for a brief euphoric moment they believed they could hold the city. Probably the assessment that the Communists were in Hue to stay was not shared at the higher echelons, but it was widespread in Hue and at the Thua Thien provincial level. One intercepted Communist message, apparently written on February 2, exhorted cadres in Hue to hold fast, declaring; "A new era, a real revolutionary period has begun (because of our Hue victories) and we need only to make swift assault (in Hue) to secure our target and gain total victory." The Hanoi official party newspaper, Nhan Dan, echoed the theme: "Like a thunderbolt, a general offensive has been hurled against the U.S. and the puppets... The U.S.-puppet machine has been duly punished. The puppet administrative organs... have suddenly collapsed. The Thieu-Ky administration cannot escape from complete collapse. The puppet troops have become extremely weak and cannot avoid being completely exterminated."
Of course, some of this verbiage is simply exhortation to the faithful, and, as is always the case in reading Communist output, it is most difficult to distinguish between belief and wish. But testimony from prisoners and hoi chanh, as well as intercepted battle messages, indicate that both rank and file and cadres believed for a few days they were permanently in Hue, and they acted accordingly.
Among their acts was to extend the death order and launch what in effect was a period of social reconstruction, Communist style. Orders went out, apparently from the provincial level of the party, to round up what one prisoner termed "social negatives," that is, those individuals or members of groups who represented potential danger or liability in the new social order. This was quite impersonal, not a blacklist of names but a blacklist of titles and positions held in the old society, directed not against people as such but against "social units."
As seen earlier in North Vietnam and in Communist China, the Communists were seeking to break up the local social order by eliminating leaders and key figures in religious organizations (Buddhist bonzes, Catholic priests), political parties (four members of the Central Committee of Vietnam), social movements such as women's organizations and youth groups, including what otherwise would be totally inexplicable, the execution of pro-Communist student leaders from middle and upper class families.
In consonance with this, killing in some instances was done by family unit. In one well-documented case during this period a squad with a death order entered the home of a prominent community leader and shot him, his wife, his married son and daughter-in-law, his young unmarried daughter, a male and female servant and their baby. The family cat was strangled; the family dog was clubbed to death; the goldfish scooped out of the fish-bowl and tossed on the floor. When the Communists left, no life remained in the house. A "social unit" had been eliminated.
Phase II also saw an intensive effort to eliminate intellectuals, who are perhaps more numerous in Hue than elsewhere in Vietnam. Surviving Hue intellectuals explain this in terms of a long-standing Communist hatred of Hue intellectuals, who were anti-Communist in the worst or most insulting manner: they refused to take Communism seriously. Hue intellectuals have always been contemptuous of Communist ideology, brushing it aside as a latecomer to the history of ideas and not a very significant one at that.
Hue, being a bastion of traditionalism, with its intellectuals steeped in Confucian learning intertwined with Buddhism, did not, even in the fermenting years of the 1920s, and 1930s, debate the merits of Communism. Hue ignored it. The intellectuals in the university, for example, in a year's course in political thought dispense with Marxism-Leninism in a half hour lecture, painting it as a set of shallow barbarian political slogans with none of the depth and time-tested reality of Confucian learning, nor any of the splendor and soaring humanism of Buddhist thought.
Since the Communist, especially the Communist from Hue, takes his dogma seriously, he can become demoniac when dismissed by a Confucian as a philosophic ignoramus, or by a Buddhist as a trivial materialist. Or, worse than being dismissed, ignored through the years. So with the righteousness of a true believer, he sought to strike back and eliminate this challenge of indifference. Hue intellectuals now say the hunt-down in their ranks has taught them a hard lesson, to take Communism seriously, if not as an idea, at least as a force loose in their world.
The killings in Phase II perhaps accounted for 2,000 of the missing. But the worst was not yet over.
Hue: Phase III
Inevitably, and as the leadership in Hanoi must have assumed all along, considering the forces ranged against it, the battle in Hue turned against the Communists. An intercepted PAVN radio message from the Citadel, February 22, asked for permission to withdraw. Back came the reply: permission refused, attack on the 23rd. That attack was made, a last, futile one. On the 24th the Citadel was taken.
That expulsion was inevitable was apparent to the Communists for at least the preceding week. It was then that Phase III began, the cover-the-traces period. Probably the entire civilian underground apparat in Hue had exposed itself during Phase II. Those without suspicion rose to proclaim their identity. Typical is the case of one Hue resident who described his surprise on learning that his next door neighbour was the leader of a phuong (which made him 10th to 15th ranking Communist civilian in the city), saying in wonder, "I'd known him for 18 years and never thought he was the least interested in politics." Such a cadre could not go underground again unless there was no one around who remembered him.
Hence Phase III, elimination of witnesses.
Probably the largest number of killings came during this period and for this reason. Those taken for political indoctrination probably were slated to be returned. But they were local people as were their captors; names and faces were familiar. So, as the end approached they became not just a burden but a positive danger. Such undoubtedly was the case with the group taken from the church at Phu Cam. Or of the 15 high school students whose bodies were found as part of the Phu Thu Salt Flat find.
Categorization in a hypothesis such as this is, of course, gross and at best only illustrative. Things are not that neat in real life. For example, throughout the entire time the blacklist hunt went on. Also, there was revenge killing by the Communists in the name of the party, the so-called "revolutionary justice." And undoubtedly there were personal vendettas, old scores settled by individual party members.
The official Communist view of the killing in Hue was contained in a book written and published in Hanoi:
"Actively combining their efforts with those of the PLAF and population, other self-defence and armed units of the city (of Hue) arrested and called to surrender the surviving functionaries of the puppet administration and officers and men of the puppet army who were skulking. Die-hard cruel agents were punished."
The Communist line on the Hue killings later at the Paris talks was that it was not the work of Communists but of "dissident local political parties". However, it should be noted that Hanoi's Liberation Radio April 26, 1968, criticized the effort in Hue to recover bodies, saying the victims were only "hooligan lackeys who had incurred blood debts of the Hue compatriots and who were annihilated by the Southern armed forces and people in early Spring." This propaganda line however was soon dropped in favour of the line that it really was local political groups fighting each other.
The Hue Massacre Under the Eyes of Foreign Reporters
AN EFFICIENT SLAUGHTER
(Vietnam a History, Stanley Karnow, Viking Press, NY, 1983, p. 530-531)
The Communists executed hundreds of civilians during their Tet offensive, but the slaughter was particularly marked in and around Hue, where estimates of those put to death range from 200 to 400 British Journalist Stewart Harris, who opposes U.S. policy in Vietnam and declares that "my instinct is not to sustain it by writing propaganda," recently visited Hue' and vicinity to investigate the executions. Last week he reported his findings in the Times of London:
The North Vietnamese army and the Viet Cong executed many Vietnamese, some Americans and a few other foreigners during the fighting in and around Hue. I am sure of this after spending several days in Hue investigating allegations of killings and torture. I saw and photographed a lot for myself, but inevitably I relied on many civilians and soldiers, Vietnamese, Americans, Australians and others. All seemed honest witnesses, telling the truth as they believed it.
On a lovely sunny afternoon in the green valley of Nam Hoa, about ten miles southwest of Hue, I was with Warrant Officer Ostara, an Australian adviser with the South Vietnam army standing on the sloping sides of a recently dug hole. In the bottom were rush mats over sheets of plastics. Ostara drew them back and I saw two bodies, dead Vietnamese, with their arms tied behind their backs just above the elbows. They had been shot through the back of the head, the bullet coming out through the mouth. The faces would have been difficult to recognize, but the day before 27 women from the village walked out three miles carrying mattocks to dig for their missing husbands and sons, having heard about this patch of disturbed earth near the roadside. Ostara told me that the enemy had come through on their way to Hue. They had taken 27 men. Some were leaders and some were younger strong enough to be porters or even ancillary soldiers.
"Men were simply condemned by drumhead courts and executed as enemies of the people," said Bob Kelly, the senior province adviser in Thua Thien province. "These were the leaders, often quite small men. Others were executed when their usefulness ceased, or when they didn't Cooperate they were shot for their trouble. Some of my staff were badly mutilated, but I am inclined to believe this was done after they were killed. Their hands were tied and they were shot behind the head I helped to dig one body out, but I have been told by Vietnamese whom I respect that some people were buried alive."
Lieut. Gregory Sharp. an American adviser with the Vietnam 21st Ranger Battalion, told me that his men had come across about 25 new graves in a cemetery five miles east of Hue on March 14. From half a dozen of the graves the heads were sticking up out of the sandy soil and, according to Sharp, "there wasn't much left of them-buzzards and dogs, I suppose. Some had been shot in the head and some hadn't. They had been buried alive. I think. There were sort of scratches in the sand in one place, as if someone had clawed his way out." At Quan Ta Ngan three Australian warrant officers saw seven men in one of three graves they found. The seven. I was told, had been shot one after the other, through the back of the head, hands tied.
Soon after arriving in Hue' I went in a Jeep with three Viet Nam officers to inspect sites where the bodies of executed men were said to have been found. We went first to Gia Hoi high school in District Two, east of the citadel. Here 22 new graves had been found, each containing between three and seven bodies. It is still a horrifying place. The officers told me that the bodies had been tied and, again. Most had been shot through the head, but "some had been buried alive."
There are about 40,000 Roman Catholic Vietnamese in Hue'. What happened to them? About three-quarters of the Roman Catholics in Hue' live in Phu Cam, on the southern outskirts of the city. They resisted strongly when the enemy came in, and some were executed. Four Viet Nam priests were taken away and three foreign priests were killed. Two French priests were actually given permission by the Viet Cong to return to Phu Cam and help the sisters-and then they were shot on the way back. Another French priest was executed, perhaps because he was chaplain to the Americans.
Summing up all this evidence about the behavior of the Viet Cong and the North Vietnamese army in Hue one thing is abundantly clear and ought to surprise no one. They put into practice, with their usual efficiency the traditional Communist policy of punishing by execution selected leaders who support their enemies. In Hue, as elsewhere, they were unable on the whole to capture and execute the more important officials, because these men were careful to protect themselves in heavily fortified compounds, defended by soldiers and police. In Hue, as elsewhere, the more defenseless "little people' were the victims-the village and hamlet chiefs, the teachers and the policemen. Already most of these positions have been filled again, and I find it impossible to write adequately about the courage of men who succeed the executed.
The world renown historian, Stanley Karnow, and an authority in the Vietnam War History has revealed many details of the Tet offensive and the Hue massacre.
Five months before, as they began to prepare for the assault planners and their intelligence agents inside the city compiled two lists. One detailed nearly two hundred targets ranging from such installations as government bureaus and posts to the home of the district chief's concubine. The other contained the names of "cruel tyrants and reactionary elements," a rubric covering civilian functionaries, army officers, and nearly anybody else linked to the South Vietnamese regime as well as uncooperative merchants, intellectuals and clergymen. Instructions were also issued to arrest Americans other foreigners except for the French-presumably because President de Gaulle had publicly criticized U.S. policy in Vietnam.
Vietcong teams, armed with these directives, conducted house to house searches immediately after seizing control of Hue, and they were merciless. During the months and years that followed, the remains of approximately three thousand people were exhumed in beds, coastal salt flats, and jungle clearings. The victims had been shot or clubbed to death, or buried alive. Paradoxically, the American public barely noticed these atrocities, preoccupied as it was by the incident at Mylai-in which American soldiers had massacred a hundred Vietnamese peasants, women and children among them. Revisiting Vietnam in 1981, I was able to elicit little credible evidence from the Communists clarify the episode.
Captured in the home of Vietnamese friends, Stephen Miller of the U.S. Information Service was shot in a field behind a Catholic seminary Dr. Horst Gunther Krainick, a German physician teaching at the local medical school, was seized with his wife and two other German doctors and their bodies were found in a shallow pit. Despite their instruction to spare the French, the Communists arrested two Benedictine missionary, shot one of them, and buried the other alive. They also killed Father Buu Dong, a popular Vietnamese Catholic priest who had entertained Vietcong agents in his rectory, where he kept a portrait of Ho Chi Minh -telling parishioners that he prayed for Ho because "he is our friend too." Many Vietnamese with only the flimsiest ties to Saigon regime suffered as well Pham Van Tuong, a part-time janitor at a government office, was gunned down in his front yard along with his two small children. Mrs. Nguyen Thi Lao, a cigarette vendor, was presumably executed because her sister worked in a government bureau. Anyone resisting arrest was promptly killed, but those who surrendered to the Communists often fared no better. Five South Vietnamese officers, who emerged from their hiding place without a fight, were taken to a high school playground and each shot in the head. Many people disappeared after submitting to Vietcong promises of a quick release, as one woman later recalled: "The Communists came to our house and questioned my father who was an elderly official about to retire. Then they went away returning afterward to say that he had to attend a study a study session that would last only ten days. My mother and I were worried because the Communists had arrested his father in just that way in 1946. Like his father my father never came back."
"The Vietnam Experience"
(Clark Dougan & Stephen Weiss, "The Vietnam Experience 1968", Boston Publishing Company, Boston, MA, p. 36)
The full story of what happened in Hue between January 31 and February 25,1968, may never be known. But the preponderance of evidence, including the testimony of many survivors, indicates that Communist forces did in fact carry out systematic assassinations. The most persuasive case is that made by reporter Don Oberdorfer of the Washington Post in his authoritative work, Tet! Following up rumors of large-scale executions behind enemy lines, Oberdorfer made three visits to Hue-one during the battle, another just after, and a third in December 1969 "to reconstruct the experiences of the Hue people". Their pseudonymous accounts of the fates of relatives, neighbors, and friends-some of which have been recounted in this chapter- left no doubt in Orberdorfer' mind that mass executions have been carried out by the communists.
"Aftermath" chapter of the "Battle for Hue"
(Keith William Nolan, "Battle for Hue", Presidio Press 1983, p. 183-184)
Soon after the battle, the South Vietnamese government initiated Operation Recovery, a 90-day relief and reconstruction effort aimed at the entire I Corps, but focused primarily on Hue. It brought food, clothing, shelter, and medical attention to that city's estimated 116,000 refugees (out of a population of 140,000). By the end of the year, life in Hue was relatively back to normal. As Major Swenson noted, "My final duties as liaison officer entailed taking visitors to Task Force X-RAY through the city on a guided tour. The city was not destroyed in the Tet Offensive. It was damaged, but still beautiful."
The war had finally come to the people of Hue - and they paid the price. As Hue pulled itself out of the mess, one bloody sidelight of the battle was uncovered, something worse than refugees and cross-fire deaths: the Viet Cong and North Vietnamese had massacred many of the people of Hue during their occupation. Over the years, the evidence was collected in bits and pieces; the discovery of mass graves, captured communist documents, statements by prisoners of war. It was learned that with the typical cold-blooded efficiency of the Communists, the VC had gone into Hue with lists of so-called Enemies of the People. Those marked included government officials, city administrators, intellectuals, teachers, college students, soldiers, foreigners - and their families - all those suspected of being potential enemies of the communist cause. There was one other category: all those who could identify the VC infrastructure now that it had surfaced for the Tet Offensive. That could include any innocent bystander. The people were rounded up and some were executed in the city. When the fight was obviously being lost by the VC, they marched their political prisoners outside the city to different sites and killed them. Some were buried alive. Great pains were taken by the Communists to conceal their work, and it took a year for the allies to put the pieces together. The South Vietnamese government finally recovered three thousand bodies in mass graves around Hue. Another two thousand people were still unaccounted for.
The 1968 Hue Massacre: Lessons Learned
For the last half century, Vietnamese are the most ill-fated people.
During the Second World War the Vietnamese were caught in the power struggle between the French and the Japanese and the toll was the starvation of more than a million people. From 1946 to 1975 many more became victims of the Anti-French war followed by the Vietnam conflict.
Besides the incidental victims of the war, many lives were needlessly sacrificed for the so called "Communist Revolutionary", namely:
1.The Land Reform in the 50' s.
2.The Viet cong terrorism in the 60' s, where Mau Than massacre was at its height.
3.The Viet cong cruel policies have caused many people to suffer and die in concentration camps throughout the whole country. Coupled with those who lost the lives (Boat People) at sea in search of freedom.
In the wake of the demise of Communism, Ha Noi had to confess and accepted its mistakes about the Land Reform policy and had to end its brutal policy in South Vietnam during the first years after 1975.
But, in the issue of respecting human lives, social equality, and keeping their promises, the Communist regime is found at where it was 30 years ago. This is the reason why people continue to be oppressed and terrorized.
By that very reason, to understand and to remember what actually happened in the Mau Than massacre will help contribute toward the effort of bringing the serious mistake of the past to the light - in hope to prevent such mistakes from recurring.
Having found out the criminals that were responsible for the Mau Than bloody massacre, will not only do console to the victims' soul, but will also prevent those who are in charge of governing Vietnam from repeating these crimes.
May this document be a contribution to the effort of keeping any individual from using the name of a doctrine, a political party or a government as a convenience to violate the basic Human Rights. It is the essence of the ill-attitude of the disregard for Human Rights that easily leads to the crimes against humanity: A Crime that the Communist Party of Vietnam must admit to have committed in the past half century, especially those of the Mau Than Massacre.
Misreporting That Doomed Millions
On July 26, 1977, a man who was until recently a member of what passes for a legislature in Hanoi testified before a subcommittee of our House of Representatives. He had just flown to Washington from Japan, after having fled from Vietnam by fishing boat. He abandoned his family and risked his life in a small boat on the open seas, because, he said, he felt impelled to tell the world about the tragedy that had befallen his country, South Vietnam.
This man, Nguyen Cong Hoan, had previously been a member of the National Assembly in Saigon prior to the Communist takeover of the South. He had been opposed to the Thieu government, opposed to the war and sympathetic to the Communists. The Communists had rewarded him by selecting him as one of the members of the legislature in Hanoi. He became a member of the privileged class, but he soon became disillusioned and alarmed by the Communist policies and practices.
The much feared but generally unreported Communist bloodbath was carried out in his province, Phu Yen, in the early days of the takeover, he said. He estimated that 500 people were killed in the early stages and 200 since then. He said that so many of his friends and acquaintances had been arrested that he could not count them. One such acquaintance, a communist sympathizer, was arrested simply because he had received a letter from abroad, even though he immediately reported it to the local authorities. All the private schools had been closed, and all the religions were being persecuted. The most serious violation of human fights, he said, was the constant threat to human life. Anyone could be killed at any time for the most improbable reunion.
For example, a Buddhist monk who had been an adviser to the Vietcong was executed as a CIA agent because he had received a letter of appreciation from the American Consul- ate for having helped in the search for American MIAs.
Mr. Hoan said that as much as the Vietnamese hate war, they are now ready to continue the struggle for many more years to try to liberate themselves from "the most inhuman and oppressive regime they have ever known."
Just before Mr. Hoan testified, Congressman Donald Fraser's subcommittee had heard testimony from Assistant Secretary of State Richard Holbrooke and from Charles Twining, a State Department expert on Cambodia. Mr. Holbrooke officially confirmed what has long been known about the incredible suffering of the Cambodian people under the Communists. Mr. Twining, who said that he had interviewed thousands of escapees from Cambodia, said that the policy of the Cambodian Reds is to kill everyone with a seventh grade education or more. He said be had never heard of a single trial. People were simply taken away and murdered, usually by administering a blow on the back of the bead with a club. Mr. Twining said that the number of deaths from disease and starvation was a large multiple of the number killed by the Communists directly. Many of those deaths could have been prevented if it had not been for the harsh and inhumane policies of the new rulers of Cambodia.
They Gave Their Lives In Vain
Over 50,000 Americans gave their lives to prevent this disastrous development in Southeast Asia. We spent billions of dollars to honor a commitment to defend the freedom of the Vietnamese people. We owe those who gave their lives in vain at least an honest effort to understand why we failed to achieve our objective.
One reason was that there were in Vietnam too many people like Nguyen Cong hoan who did not understand what a Communist victory would mean. Hoan, an educated man, has said that he honestly thought that things would be better under the Communists than they were under Thieu. He could learn only from bitter experience.
But another reason for our failure has been laid out for all to see in a new book about the performance of the American news media in the Vietnam war, and specifically about its handling of a crucial turning point in the war, the Tet offensive.
The book is called Big Story. It is the work of Peter Brae- strop, who was a reporter for the Washington Post in Saigon at the time of the Tet offensive in 1968, and who previously was a correspondent for The New York Times. In this richly documented work, Braestrap shows how the military defeat suffered by the Vietcong and the American media into a political defeat for the United States transformed North Vietnamese in the period January 31 to March 31, 1968.
After the communist takeover in April 1975, James Reston of The New York Times wrote proudly that American correspondents and cameramen had forced the withdrawal of American military power from Vietnam. Braestrup has taken one of the key periods in the war and has shown just how the power of the media offset the power of our arms.
Ben Tre: Did Being Destroyed Save It?
One of the most famous quotes of the Vietnam War was a statement attributed to an anonymous American major by AP correspondent Peter Aroett. Writing about the provincial capital, Ben Tre, on February 7, 1968, Arnett said: "'it became necessary to destroy the town to save it,' a U.S. major says."
Braestrup says of this much used and abused sentence: "Arnett's quote passed quickly into the overheated rhetoric of the Vietnam debate back home. It was cited, paraphrased, reshaped, misattributed, and used for years as an all-purpose description of the war . . . Senator Albert Gore restated it: 'A military victory can only be achieved by the destruction of what we profess to seek to save.' Abe applied it to the battle of Hue: 'Marine officers concede that it may be necessary to rip apart, destroy the beautiful Citadel in order to save it.' Drew Pearson used it: 'In other words, to save Vietnam we must almost destroy it.' The New Republic reworked the quote and attributed it to Major Brown: 'Helicopter and bomber attacks on Ben Tre were directed by Maj. Chester L. Brown of Erie, Pennsylvania, who said to the Associated Press that 'it became necessary to destroy the town in order to save it' and 'a pity about the civilians.'"
Perhaps no words did more to change attitudes about the war than this single sentence, born out of Tet. The AP headquarters loved the Arnett story. Their in-house publication, AP Log, said: "One of the most graphic of the week's stories was Arnett's account of the destruction of Ben Tre 'to save it,' and his photos added to the story's impact..."
But was it true? William Touhy of the Los Angeles Times wrote a story six weeks later in which he said: "Only 25% of the city-rather than the reported 80%-was actually destroyed by the Vietcong attack and the Vietnamese artillery and U.S. air strikes that followed. And the U.S. advisory group doubts that the (Arnett) statement was actually made in that form. 'It sounds too pithy and clever to have been made on the spot,' says one U.S. civilian advisor. 'It just rings wrong.'"
Arnett refused to tell Braestrup whom the alleged major was who made the statement, claiming that he is still in military service. He said: "So I will keep my silence until I run into him again and get his clearance."
Braestrup says The Washington Post was considering running Touhy's debunking of Arnett, but Lee Lescaze, one of their two men in Saigon, (Braestrup was the other) recommended against it on the ground that there was a great deal of damage done and "whether it is less enormous than first thought seems a quibble."
Was Our Embassy Taken?
Many Americans still think that the Vietcong at the height of the Tet offensive occupied the American Embassy in Saigon on January 31, 1968. That is what both our wire services, which provide the news to most of our news- papers, radio and TV stations, reported. In their early reporting, both the AP and UPI had the Vietcong occupying the supposedly attack-proof embassy building. The AP reported that the enemy occupied parts of the building for six hours and that they had to be driven out by paratroopers who landed by helicopter on the roof of the building. The UP! Had the Vietcong reportedly occupying five floors of the embassy. They referred to a six-hour battle through "carpeted" offices.
The fact was that there were neither Vietcong nor carpets in the embassy offices. Nineteen Vietcong sappers broke into the embassy grounds in the early hours of the morning. Their mission was to blow up the building. Not one got inside the building, and by 9:00 A.M., 17 of them had been killed and 2 had been captured. Damage to the building was minimal, and the ambassador was back at work in his office before noon.
Top officials in both Saigon and Washington so informed the press, but the newsmen, reflecting their distrust of their own government and perhaps a willingness or even eager to believe the worst, wrote their stories in a way that cast doubt on what the officials said. The impression lingered on that the embassy had been occupied, and though the record was eventually corrected, the psychological damage done by the initial horror stories was immense.
Building Up the Vietcong
Braestrup shows that another tendency of the media was to exaggerate the strength and accomplishments of the Viet- cong. The little men were often made ten feet tall. They were bold and daring, unafraid to die. They were every- where. Their planning was presented as being faultless and they were supposed to have weapons as good as ours, and their techniques were even better.
The main trouble with all this was that it simply was not true. While their attacks were bold, the fact was that in Saigon they failed in virtually all of their missions.
A common theme of stories in The New York Times was sounded by Tom Buckle), on February 2, 1968. He wrote: "Despite official statistics to the contrary, no part of the country is secure either from terrorist bombs or from organized military operations . . . Most important, after years of fighting and tens of thousands of casualties, the Vietcong can still find thousands of men who are ready not only to strike at night and slip away, but also to undertake missions in which death is the only possible outcome."
Charles Mohr reinforced this the next day, blowing up the Vietcong achievements, saying: "The courage and motivation of the guerrilla units that struck Saigon, Dad Nang, the provincial capitals and many other towns and installations were important factors in the havoc they created... The attacks also showed excellent planning and valuable support by communist agents within the towns and cities."
Braestrup notes that Mohr ignored the holiday laxity of South Vietnamese leaders which had contributed to the enemy successes, and he left out the fact that the attacks on key installations in Saigon, whose planning he lauded. Had, for the most part, been failures.
The Times played up a story that claimed that the Vietcong were so good with mortars that they could often hit their target with a single round and then slip away before the helicopters could seek them out. The headline was: "Foe Giving Warfare Lessons With Simple Mortar." Braestrup noted that mortars were not precision weapons and that even in daytime when the crew was firing at a visible target direct hits were rate. Lie notes that the Vietcong usually fired at night and in a hurry and that they wasted most of their rounds in their hit and run attacks.
Braestrup points out that for all the noisy firing, not a single allied air base had to suspend operations, and that even Khe Sanh which was under siege for 77 days continued to receive big C-123 transports on its airstrip. "Few news- men noticed," he adds dryly.
Braestrup says that "there were few hints in Times analyses or battlefield reporting that the foe was anything but shrewd, tenacious, ascetic, infallible, and menacing."
One of the devices of our newsmen was to subtly impute greater presence to the Vietcong than was actually the case. For example, on the CBS Evening News of February 16, 1968, the viewers were informed that North Vietnamese truck convoys, operating at might, were unloading their cargoes at Communist-held entrances in the wall of the Citadel of Hue, the heart of the city. Accurately, the trucks were stopping and unloading well short of the city of Hue, but the CBS report gave the impression that the enemy control was far greater than it actually was.
NBC aired a captured Vietcong propaganda film purporting to show how they operated. The Vietcong claimed the film was made in the town of Cu Chi. NBC said: "It's doubtful these scenes were actually filmed in Cu Chi, since the is not an enemy stronghold now and U.S. officials insist it was not last year when this f'dm was produced." Braestrup notes matter of faculty: "There was nothing for U.S. officials to 'insist' upon; Cu Chi was a garrisoned district capital in Hau Nghia province less than two miles from the U.S. 25th Division base camp, which was established there in 1966.
Don Webster of CBS on March 4, 1968, proclaimed that "the enemy now has weapons every bit as good as the Americans." He said, the enemy "was attacking with new boldness and daring" and that Vietnam was a much more dangerous place than ever before." Braeamp notes that this statement about weapons was true only if Webster meant just small arms, and he said the "boldness and daring" had already noticeably decreased by the time Webster spoke.
Of Time magazine, Braestrup says that it presented the Tet attacks as demonstrations of "Giap's genius," the communists' "split-second timing" and "resiliency of communications and command, the quality of their weapon and their ability to strike at will anywhere in Vietnam. News- week also gave the impression of a "foe without setbacks or flaws." However, he does give Newsweek credit for an independent post-mortem of the enemy's performance at Tet. In this, Newsweek noted communist failures that caused their inability to reinforce their initial gains. Key bridges were not blown, they failed to capture the Saigon radio station, and they failed to commit major units, letting the momentum of the early attacks die.
However, Newsweek insisted that the attack was no failure despite these mistakes. It said: "Despite the fact that the communists did not achieve most of their objectives, their offensive was far from a failure ... it caught the (allies) by surprise and made a mockery of numerous allied claims that the enemy was too weak to stand up and fight..." Braestrup comments that the latter was a journalistic straw man, since Westmoreland and Wheeler had been promising more enemy initiatives and hard fighting, not claiming that he was too weak to fight.
Civilian Destruction and Deaths
Braestrup notes that the correspondents in Saigon were shocked by the fact that the war had come close to them. The dramatic picture was the one showing destruction and the pathos of refugees. The mini was that the world was given a picture of death and destruction in the cities that did not reflect reality. "All Vietnam," Braestrap says, judging from the film shown at home, "was in flames or being battered into ruins and all Vietnamese civilians were homeless refugees." He says this was not the case even in Hue, where the fighting lasted three weeks. Had reality been anything like what the American people were given to believe, "urban recovery could never have occurred."
In placing the blame for the destruction and deaths, our newsmen, Braestrup found, tended to blame the allies. The Vietcong tended to be exonerated.
An important mutation of this tendency was the lack of media interest in the massacre by the communists of civilian in the city of Hue during their three-week occupation of that city. Most newsmen showed no interest in the announcements in late February and March of the discovery of mass graves of tour-dared civilian on the outskirts of Hue. The first news of the massacre broke on February 11, 1968, when the mayor of Hue charged that 300 civilians had been executed by the Communists and buried in a mass grave south of the city.
The AP covered the story in seven paragraphs. The Washing- ton Post ran a six-paragraph story--on page 11. The New York Times put the story on page one, but devoted only three paragraphs to the massacre.
On February 28, the UPI put out a story about the discovery of 100 bodies in a common grave near Hue, and on March 3, the UPI reported that survivors of this atrocity reported that the victims had been forced to dig their own graves and were shot as they begged for mercy.
On March 6, William Ryan of the AP did a story about Hue. He noted in passing that "about 1,000 civilians have died." He said that the enemy forces had executed many of them and that mass graves had been found. Neither the Times nor the Post used this story, and Ryan was not enough interested to visit the graves.
On March 9, the U.S. Embassy issued a press release putting the number of murdered civilians at 400, saying that prisoners had admitted under interrogation that their commanders ordered the execution of almost 400 civilians around Hue. This attracted little media attention.
Stewart Harris for The Times of London wrote the first story with any detail on the massacre. The New York Times printed it on page 4 on March 28, 1968. Harris had actually taken the trouble to look at some of the graves and see the mutilated bodies. He reported for the first time that some of the victims were said to have been buried alive. However, Harris used a very conservative figure for the number executed-only 200.
Nothing more was said for a month.
On May 1, The New York Times reported that the United States Mission had upped its estimate of the number killed to 1,000 civilians. This story reported that indications were that nearly half of the victims had been buried alive and that many had been beaten unconscious before being buried. Only the first three paragraphs of this story were carried on page 1, under a one-column headline.
The Washington Post put this story on page 19, using a UPI dispatch.
That seems to have been the end of reporting on the Hue massacre until late in 1969, when the AP put out a story about the continuing search for bodies, revealing that the tell was up to more than 3,000. The Times carried this story on page 3, on November 13. On November 25, they carried another AP story reporting that a captured North Vietnamese document stated that they had "eliminated" nearly 2,900 people at Hue, including 2,720 civilians.
The story carried the suggestion that this information was being released to counter the growing furor over the allegation that U.S. troops had massacred 125 civilians at My Lai.
The Washington Post took notice of a study by a USIA official, Douglas Pike, "The Vietcong Strategy of Terror," in December 1969, in which he discussed his Findings on the Hue massacre, exposing the calculated policy that lay behind it. Pike reported that 2810 bodies had been found and 1,946 persons were still missing. The New York Times did not mention this study until May 17, 1970, and then only briefly. This was a few days after Tom Wicker, a columnist for The Times, had written that careful research had revealed that the executions had taken place "in the heat of battle and as the revenge of an army in retreat," not as deliberate policy. This was the exact opposite of Pike's carefully researched findings.
Braestrup advances several possible reasons for the media's lack of interest in the massacre. The best clue, however, is this statement: "In a sense, newsmen and their editors may have been as mentally unreceptive to reports of the Hue massacre as was much of the U.S. public later to reports in 1969 of the My Lai massacre." Stewart Harris, who wrote about the massacre for the London Times, was opposed to U.S. policy in Vietnam, and Time quoted him as saying of that story: "My instinct is not to sustain it (the war) by writing propaganda."
In November 1969, when the story of the My Lai massacre by American troops broke, the suspicion of atrocity stories and the reluctance to write "propaganda" vanished. In the space of six weeks The New York Times carried so many stories on My Lai that the listing of them required nearly three and a half pages of small type in the Times annual index.
Recently Reed Irvine, chairman of AIM, discussed this contrast with Arthur Ochs Sulzberger, the chairman of The New York Times, and Sydney Gresen, executive vice president of The Times. Mr. Gruson said that My Lai was given so much attention because it was an important story for the American people. Mr. Sulzberger turned to him and said quietly, "But what he is saying is that it was important because we made it important."
A Disgraceful Performance
In summing up his detailed study, Braestrup concludes:
"Rarely has contemporary crisis-journalism turned out, in retrospect, to have veered so widely from reality. Essentially, the dominant themes of the words and film from Vietnam . . . added up to a portrait of defeat for the allies. Historians, on the contrary, have concluded that the Tet offensive resulted in a severe military political setback for Hanoi in the South. To have portrayed such a setback for one side as a defeat for the other-in a major crisis abroad- cannot be counted as a triumph for American journalism."
Braestrup asserts, not convincingly, that ideological bias was not a dominant factor in the misrepresentation of the true facts of Tot. He shows that because of the defects in the way the news business works, the original false impressions of a Vietcong triumph got very heavy play, while the evidence that later came in to show the contrary got much less attention. "At Tet," he says, "the press shouted that the patient was dying, then weeks later began to whisper that he somehow seemed to be recovering-whispers apparently not heard amid the clamorous domestic reaction to the initial shouts."
There is reason to believe that ideology played a role in this. Braestrup points out that there was plenty of evidence of the true state of affairs in late February, but in mid-March CBS, NBC and Newsweek were still showing the North Vietnamese troops holding the initiative. NBC and CBS had both aired specials in which their news stars came out in opposition to the war, and Braestrup found that Newsweek had been strongly against the war long before Tet.
And as Edward Jay Epstein has told us, when Jack Fern of NBC approached executive producer Robert Northshield with the suggestion that they ought to do a special on Tet to set the record straight, because it had really been a victory for our side, Northshield refused. Later, when asked why, Northshield explained: "The public perceived it as a defeat, and therefore it was a defeat."
Big Story is a big and very important book. It will have to be read by our military tacticians, as well as by journalists, because it is a major contribution to the study of warfare. It proves the maxim that the pen in mightier than the sword, since the media treatment of Tet turned a military victory into a defeat. It helped bring about the results that Twining and Hoan described in their testimony before the House subcommittee.
To the world's media "The Tet offensive" is only a fighting incident in a long continuous war. The casualties from both sides were tabulated, and more details were released, and later were overwhelmed by more non-interrupting news of the war.... However, to the Vietnamese, the Hue massacre was unequivocally considered as a normal casualty of war.
Humanity had suffered tens of millions of losses of lives during the Second World War. Why the free world has particularly paid special attention to the victims of the Holocaust? Because these victims are not the incidents of the War. They are victims of a premeditated system equipped with careful researches and sophisticated disposing instruments. These murderers are the evildoers of the human race. The International War Crime Tribunal of Nuremberg did not just condemn the act as the War Crime but also as the Crime against Humanity.
The first few days of 1968, the city of Hue was a bloody battlefield that spanned 26 days. The impartial ammunitions did not stop at the soldiers only...
But the impartial ammunitions could not explain the death of thousands that were herded outside of the city to be clubbed to death and buried alive in mass graves. These hapless victims are not the victims of war but was rather victims of a series cold-blooded murders.
Who were responsible for this massacre and who were the executioners?
The Communist government of Vietnam, where their members were directly involved in this killing or witnessed the massacre, have the responsibility in answering these questions; not just to the families of the victims but also to the whole Vietnamese people and the World Court.
The Tet Offensive was a huge failure for the North on every count except one. Much of the VC that took part in the “uprising” that virtually no one joined, were killed by US, South Vietnamese, Australian and Allied troops, local militias, the people of Saigon and throughout the South. And that’s the only part of the Communist North’s plan that worked out. The incompetent in Western Governments, military, press and Left radicals did the rest.
The North wanted to eliminate the VC to consolidate their own power. That’s the classic infighting, murderous rivalry and implosion of Communism, folks. They only change through murder, plot, lies, and inertia, outside pressures or collapse. Thirty five battalions of VC attacking hundred of targets simultaneously, all ending with most VC killed or captured. Not one objective achieved. Some Communist success. What would be failure? The VC dying twice?
The VC captured the National Radio station to broadcast the signal to “general uprising” but the power was out. And there was no uprising. Gee, imagine if you staged a rebellion and nobody came? Nope, most people in the South felt about a Communist future the same way as most sane people do with a working economy and some semblance of government, no matter how corrupt. They don’t want it. People get that way with folks who cut off the heads of village elders and school teachers and leave them on pikes. They probably weren't too crazy about the napalm, either. The Vietnamese people sometimes got it from several sides at once.
Yep, the war was often a hideous drag, but not as much as the ‘peace’ was, virtually all unreported, undocumented and anonymous. Thus the biggest movement of refugees in history was of the Vietnamese after the fall of Saigon. Almost three million escaping, with around one million dying in the South China Sea.
Commemorating deceased ancestors and family members who were dead has been a tradition in Vietnam since time immemorial. On the date of their death on the lunar calendar, their living descendants or members of their families hold service in commemoration of them at home or sometimes at pagoda. Offerings -- usually food, fruit, wine along with flowers and incense sticks - are presented to them on the altar. The relatives pray for them and show their love, respect and gratitude prostrating in front of the altar.
The tradition also goes beyond the limit of family members and ascendants. On the 15th day of the 7th month every lunar year, Vietnamese Buddhists conduct rites that are more elaborated at pagodas. The congregation prays for the dead in general, particularly for the dead without offspring, soldiers killed in action, war victims... The rites may last a week or even 15 days in pre-war time.
Such tradition is the same in Hue City, the ancient royal capital of Vietnam. People in this city, however, have more to do with the war dead. In the 5th moon each lunar year (around late June to early July), every Buddhist family in the city holds commemorating services at the family altar as well as in all pagodas with offerings, to pray for innocent civilians killed by the French invaders in the late 19th century. On the 23rd day of the fifth month, the year At Dau (or the Year of the Rooster 1885), the French forces conducted a fierce counter attack against the Vietnam royal army who defended the capital city. Unscrupulous French fire power killed about 2,000 to 3,000 soldiers and residents.
Although the date is the 23rd day of the 5th month, people are free to hold service for the dead on any date to their family's convenience, providing that it is within the 5th month. If you visit someone in Hue during the 5th month, you will certainly be invited to such feasts, probably every day if you have a lot of friends and relatives living in this beautiful city.
Besides the Fifth Month Commemoration, for the last 28 years, Buddhists in Hue have also held services in the first month of the lunar year for war victims in the 1968 Tet Offensive. (Tet is the Lunar New Year celebration in Vietnam).
In the darkness of the 1968 Tet's Eve, North Vietnamese Communist Army units conducted a surprise attack at Hue City, while the two sides were in a truce that had been agreed upon previously. South Vietnamese Army units defending the city were not in good positions to fight as they expected that the enemy would abide by their 4-day cease-fire promise, as they did in the preceding years. On the first day of the new year - the Year of the Monkey - Hue City streets were filled with NVA soldiers in baggy olive uniforms and pithy hats.
The communist cadres set up the provisionary authorities. The first thing they did was call all SVN soldiers, civil servants of all services, political party members, and college students, to report to the "revolutionary people's committee." Those who reported to the communist committee were registered in control books then released with promise of safety.
After a few days, they were called to report again, then all were sent home safe and sound. During three weeks under NVA units' occupation, they were ordered to report to the communist committee three or four times. In the late half of January 1968, the US Marines and the South Vietnamese infantry conducted bloody counterattacks and recaptured the whole city after many days of fierce fighting that forced their enemy to withdraw in several directions.
Meanwhile, those who were called to report the last time to the communist authorities disappeared after the Marines and South Vietnamese Army units liberated Hue. Most of the missing were soldiers in non-combat units and young civilians. No one knew their whereabouts.
In late Feb.1968, from reports of Vietnamese Communist ralliers and POWs, the South Vietnamese local authorities found several mass graves. In each site, hundreds of bodies of the missing were buried. Most were tied to each other by ropes, electric wires or telephone wires. They had been shot or beaten or even stabbed to death.
The mass graves shocked the city and the whole country. Almost every family in Hue has at least one relative, close or remote, who was killed or still missing. The latest mass grave found in the front yard of a Phu Thu district elementary school in May 1972, contained some two hundred bodies under the sand. They had been slaughtered during one-month occupation of an NVA unit. Sand left no sign of a mass grave below until a 3rd-grader dug the ground rather deep for a cricket.
Besides more than two thousand persons whose deaths were confirmed after the revelation of the mass graves, the fate of the others, amounted to several thousands, are still unknown.
The 1968 massacre in Hue brought a sharp turn in the common attitude toward the war. A great number of the pre-'68 fence sitters, anti-war activists, and even pro-Communist people, took side with the South Vietnamese government after the horrible events. After April 30, 1975 when South Vietnam fell into the hand of the Communist Party, it seems that the number of boat people of Hue origin takes up a greater proportion among the refugees than that from the other areas.
Since April 1975, the Vietnamese Communist regime deliberately moved many families of the 68-massacre victims out of Hue City. People in the city however, still commemorate them every year. Because the people are mingling the rites with Tet celebrations, Communist local authorities have no reason to forbid them.
Most Americans knew well about the My Lai massacre of US Army Lieutenant Calley where from 200 to 350 persons were killed. The '68-massacre in Hue however, has not been covered at the same proportion by the English language media. When a Tet Offensive documentary film by South Vietnamese reporters was shown to the American audience of more than 200 US Army officers in Fort Benning, Ga. in November 1974, almost 90 percent of them hadn't been informed of the facts. Many even said that had they known the savage slaughter at the time, they would have acted differently while serving in Vietnam.
The US Navy has a warship named "Hue City." It is not known how many of her sailors realize that the city she carries as a name suffered so much. Would it be a good idea to have a rite once a year in the Tet season on the "Hue City" for the dead whom the US Marines were fighting for in February 1968?
Animosity should not be handed down to younger generations, but our descendants must be taught the truth. War crimes must not be forgotten, and history is not written by one-sided writers.
Accompanied by a sudden artillery and mortar barrage and flares casting a metallic glow, two North Vietnamese battalions stormed across lightly defended bridges and lotus-choked moats into the former Vietnamese imperial capital of Hue before dawn on January 31, 1968.
It was part of nearly simultaneous surprise attacks by Communist military forces against nearly every significant city or town in South Vietnam during the lunar new year, or Tet, holiday. The Tet Offensive, as the nationwide attacks would become known, shocked the U.S. government and public into reconsidering and eventually terminating the U.S. military effort in Vietnam.
Hue was occupied for twenty-five days before the North Vietnamese were ousted. During that time, the troops and the political officers who came with them ruled over large parts of the city. One of the central objectives of the occupation, according to a written plan prepared in advance, was to "destroy and disorganize" the administrative machinery that the South Vietnamese regime had established since Vietnam was divided by international agreement in 1954. The effort to root out "enemy" functionaries, according to the plan, was to extend "from the province and district levels to city wards, streets and wharves." The political officers arrived with a carefully prepared "target list" of 196 places, organized on a block-by-block basis, to be given priority attention, including U.S. and South Vietnamese offices and the homes of the officials who worked there, as well as the homes of those who were deemed to be leading or cooperating with their efforts, including foreigners. Once in charge, the occupation forces set about expanding its target lists with the assistance of local sympathizers.
So many were killed. Le Van Rot, the owner of the most popular Chinese soup restaurant in the city, was the government block chief of his area. Four armed men, two from Hue and two from North Vietnam, came to his shop and arrested him, accusing him of being a spy. They bound his arms behind his back with wire and began to tug him toward the door. When he resisted, one of them put a bullet through his head.
Then there was Pham Van Tuong. He worked part-time as a janitor at the government information office. Four men in black pajamas came to his house, calling on him by name to come out of the bunker where he and his family had taken refuge. But when he did come out, along with his five-year-old son, his three-year-old daughter, and two of his nephews, there was a burst of gunfire. All five were shot to death.
Dr. Horst Gunther Krainick was a German pediatrician and professor of internal medicine who had worked for seven years with teams of Germans and Vietnamese to establish a medical school at Hue University. Krainick stayed in his university apartment after the fall of the city, believing he and his wife would not be harmed. Unknown to them, they were on the original target list. On the fifth day of the occupation, an armed squad arrived and put the Krainicks and two other German doctors into a commandeered Volks-wagen bus. Their bodies were found later in a potato field, all victims of an executioner's bullets.
The same day, North Vietnamese troops came in force to the Roman Catholic cathedral, where many people had taken refuge from the fighting. Four hundred men were ordered out, some by name and others apparently because they were of military age or prosperous appearance. When the group was assembled, the political officer on the scene told people not to fear; the men were merely being taken away temporarily for political indoctrination. Nineteen months later, three defectors led U.S. soldiers to a creekbed in a double canopy jungle ten miles from Hue where the skulls and bones of those who had been taken away had lain ever since. Those killed included South Vietnamese servicemen, civil servants, students, and ordinary citizens. The skulls revealed they had been shot or brained with blunt instruments.
Altogether, South Vietnamese authorities counted about twenty-eight hundred victims of deliberate slaughter during the Tet Offensive in Hue. The fate of some was known immediately. The bodies of others emerged later from mass graves in nearby jungles or the coastal salt flats. Like those taken from the cathedral, they had been shot to death, bludgeoned, or buried alive.
For several thousand years, Vietnamese Lunar New Year has been a traditional celebration that brings the Vietnamese a sense of happiness, hope and peace. However, in recent years, It also bring back a bitter memory full of tears. It reminds them the 1968 bloodshed, a bloodiest military campaign of the Vietnam War the North Communists launched against the South.
The "general offensive and general uprising" of the north marked the sharp turn of the Vietnam War. Today there have been a great number of writings about this event. However, it seems that many key facts in the Communist campaign are still misinterpreted or neglected.
In the mid-80, living in Saigon after being released from the Communist "re-education camp," I read a book published in the early 1980's in America about the story of the 1968 Tet Offensive. It said that the North Vietnamese Army supreme command had imitated one of the greatest heroes of Vietnam, King Quang Trung, who won the most spectacular victory over the Chinese aggressors in the 1789 counter-attack - in planning the 1968 operations.
The book quoted King Quang Trung's tactic of surprise. He let the troops celebrate the 1789 Tet Festival one day ahead so that he could launch the attacks on the first three days of the lunar new year while the Chinese troops were still feasting and not ready to organize their defense.
Those who claimed the similarity between the two campaigns certainly did not know the whole truth, but jumped into conclusion with wild imagination after learning that the North Vietnamese attacking units also celebrated Tet "one day ahead" before the attacks.
In fact, the Tet Offensive broke out on the Tet's Eve - in the early morning of January 30, 1968 at many cities of Central Vietnam, such as Da Nang and Qui Nhon, as well as cities in the central coastal and highland areas, that lied within the Communist 5th Military Region.. The other cities to the south that included Saigon, were attacked 24 hours later at the small hours of January 31. Thus the offensive lost its element of total surprise that every tactician has to respect.
But It surprised me that some in the American media were still unaware of such tragic story.
The story started some 5 months previously. On August 8, 1967, the North Vietnam government approved a lunar calendar specifically compiled for the 7th time zone that covers all Vietnam, replacing the traditional lunar calendar that had been in use in Asia for hundreds of years.
That old calendar was calculated for the 8th time zone that Beijing falls right in the middle. It was accepted in general by a few nations such as China, Vietnam, Taiwan, Hong Kong and somewhat in Japan and Korea, mostly for traditional celebrations and religious purposes. South Vietnam used this calendar. With common cultural origin, these countries needed not have their own calendar, particularly it has not been used for scientific and administrative activities.
The North Vietnam new lunar calendar differs from the common calendar about some dates, such as the leap months of certain year (1984 and 1987) and the Tet's Eve of the three Lunar New Years: Mau Than (1968), Ky Dau (1969) and At Suu (1985). South Vietnam celebrated the first day of the Mau Than lunar year on January 30, 1968, while North Vietnam celebrated it on Jan 29, 1968.
It was obviously that the North Vietnamese leaders had ordered the offensives to be launched on the night of the first day of Tet to take the objectives by total surprise. By some reason, the North Vietnamese Army Supreme Command was not aware of the fact that there were different dates for Tet between North and South Vietnam. Therefore, most NVA units in the Communist 5th Military Region - closer to North Vietnam - probably used North Vietnamese calendar, and conducted their attacks in the night between Jan 29 and 30, while their comrades farther to the south attacked in the night from Jan 30 to 31.
Many in the intelligence branch of the South Vietnamese Armed Forces were well aware of the reason why the Communist forces launched their attacks at two different dates. Information from sources among NVA prisoners of war and ralliers about the new calendar of North Vietnam should have been neglected by the American side. The information was also available in broadcast from Hanoi Radio.
In military operations, nothing is more important than surprise. So the Communist forces lost their advantage of surprise on more than half of the objectives. Had the Vietnamese Communists conducted their coordinated attacks at the same H-hour, South Vietnam would have been in much more troubles.
The large scale offensive resulted in drastic human and morale losses of the Communist forces. However, the offensive caused an extreme negative effect in the American public opinion and boosted the more bitter protests against the war.
Until lately, the Ha Noi propaganda and political indoctrination system has always claimed the Tet offensive their military victory, and never insisted on their victory over the morale of the American public.. Obviously, Ha Noi leaders won a priceless victory at an unintended objective.
In South Vietnam, on the contrary, the offensive created an unexpected attitude among the people.
After the first few hours of panic, the South Vietnamese armed forces reacted fiercely. There were hundreds of stories of brave soldiers and small units who fought their enemies with incredible courage..
A large number of those who were playing fence-sitters especially in the region around Hue City then took side with the nationalist government.
Several mass graves were found where thousands unarmed soldiers, civil servants and civilians were shot, stabbed, or with skulls mashed by clubs and buried in strings of ropes, even buried alive. A large number of VC-sympathizers who saw the horrible graves, undeniable evidence of the Communist barbarian crimes, changed side.
The most significant indication of such attitude could be observed from the figures of young volunteers. to join the army. After the first wave of Communist attacks, a great number of youth under draft age - below 20 years old - voluntarily enrolled in the army for combat units, so high that thousands of young draftees were delayed reporting for boot camps.
On the Communist side, the number of ralliers known as "chieu hoi" increased about four times. The offensive planners apparently expected the so-called "people upraising," so most secret cells were ordered to emerge. When the attacking units were crushed, cell members had to flee to the green forests. Thus the Tet offensive helped South Vietnam neutralize much of the Communist infrastructure before the Phoenix Campaign got rid of many others.
Unfortunately, such achievements were nullified by the waves of protests in America. As in any other developing countries, nobody takes heed of a speech from a Vietnamese official. But the same thing from an American statesman or even a protester could be well listened to and trusted. So information from the Western media produced rumors that the USA was about to sell off South Vietnam to the Communist blocks.
The rumors were almost absolutely credible to the Vietnamese - particularly the military servicemen of all ranks - because of another hearsay that until now have a very powerful impact on the mind of a great number of the South Vietnamese. There have been no poll on the subject, but it was estimated that more than half of the soldiers strongly believed that "it was the Americans who helped the Communist attack the South Vietnamese cities."
Hundreds of officers from all over South Vietnam asserted that they "saw" NVA soldiers moving into the cities on US Army trucks, or American helicopters transporting supplies to NVA units. In Saigon, most people accepted the allegation that the Americans deliberately let the Communists infiltrate the capital city because the American electronic sensor defense system around Saigon was able to detect things as small as a mouse crossing the hi-tech fences.
Another hearsay among the South Vietnamese military ran that "none of the American military units or installation and agencies - military or civilian - was under Communist first phase of the offensive (February) except for the US Embassy. And only after nearly three weeks did the US Marines engaged in the battle of Hue, in the old Royal Palace" The allegation seemed to be true. The American combat units, however, were fighting fierce battles in phase 2 (May 1968) and phase 3 (September 1968).
Similar rumors might have been of no importance if they were in America.But in Vietnam, they did convince a lot of people. In the military, they dealt deadly blows on the soldiers' morale. Their impacts still lingered on until the last days of April 1975.
The truth in the rumors did not matter much. But the fact that a great numbers of the fighting men strongly believed the rumors turned them into a deadly psychological weapon which very few or maybe none has ever properly treated in writings about the Vietnam War. Most authors studied the war at high echelons, but neglected the morale of the buck privates and the effect of the media in the Vietnam War. No military plan even by top strategists in the White House could succeed if half of the privates believed that they would be defeated before long. So why should they go on fighting?
Information sources concerning the Tet Mau Than are ample to find from the American and South Vietnam side. However, most of materials coming from Hanoi are carefully prepared propaganda that does not reflect the truth. In fact, Vietcong intentionally present the Mau Than event as a civilian "uprising" to oppose the government of South Vietnam. More over, they bluntly deny the massacres and skilfully conceal the names of the perpetrators.
From the memoirs "Victory at Mau Than" (Chien Thang Mau than) by Le Minh printed in Vietnam 10 years ago, it clearly illustrates the chronically deceitful image of Vietcong. Le Minh who ranked Colonel was one of the four top officers in charge of the attack of Hue. The commander in chief was General Tran Van Quang, Le Chuong was Political Commissar and Generals Nam Long and Le Minh were field commanders.
An excerpt from "Victory at Mau Than" shows that the circle of power in Hanoi had carefully plotted out their offensive plan in Mau Than; to attack Hue immediately after the truce agreement that they had signed.
"The preparation tasks for the battle fields are going well until February 67, Headquarters called upon one of us three (Mr. Tran Van Quang, Mr. Le Chuong or myself) to go North to receive the order. Mr Chuong went. I thought the order would include the instruction to overtake Hue in 5 days (as planned by the "Zone Party Committee"), I therefore carry on with what had been planned. A month later Mr. Chuong returns and informs that the new order is to attack Hue simultaneously with the general uprising in whole South Vietnam. The timing was "around Tet". This infers that the attack will be for many days, everything has changed completely, things will have to be planned carefully and differently."
Considering later official documents, it was July 1967 that the Communist Politburo in Hanoi started to plan for the Mau Than offensive.
Another passage of Le Minh's memoirs shows their plan to set-up a puppet government in Hue that consists of their cadres. "To set up government in the whole province of Thua Thien and Hue city; from there we form the People's Democratic and Peace Alliance in Hue. At the moment, there is plan to invite Professor Le Van Hao, Venerable Thich Don Hau and Mrs. Nguyen Dinh Chi and a few other well-known people in Hue."
In addition, Vietcong's top secret documents, were later seized, contradict with Hanoi's alibis. The findings include layout plans for the Tet offensive such as a document prepared by the "Province Party Committee" Binh Tri Thien dated October 1, 1967 (photograph of document included). Apart from plans to attack the document order to assassinate, and by all means kill all "reactionaries groups". These facts reject the cover up themes and reasoning by Vietcong that the victims massacred at Hue were only to settle personal vendettas.
In short, the revelation from Le Minh's memoirs and official Vietcong's documents exhibits the fact that many members of the Communist government in Vietnam owe it to the people the answers to the killings in Tet Mau Than and these war criminals must be brought forward to justice.
Mau Than Revisited
The Tet Mau Than event was a turning point for the war in Vietnam that led to the fall of South Vietnam. From a military tactical viewpoint, the offensive was a complete failure. The Vietcong propaganda used to indoctrinate their fighting force about the "general uprising of the people in the South that would overtake the government" never materialized. Almost all the NVA and Vietcong force were eradicated or suffered major losses. In addition, the local VC underground in the South was forced to expose their cover in order to link up with the main force.
Viet cong's sympathizers such as Duong Quynh Hoa, Do Trung Hieu, Nguyen Dac Xuan, Hoang Phu Ngoc Tuong, Ton That Lap, etcA^? had to escape along with the washed-out NVA. The left over guerrillas who were later uprooted by the Phoenix program would have otherwise facilitated the control of South Vietnam after the April 1975. Incidentally, the NVA were fawned upon by the so called "Ba muoi thang tu" (persons of April 30) who would not hesitate to speak ill of their neighbors to receive favors from the winning Communist. From a strategic viewpoint, the Tet offensive was a major success for the Communist. Thanks to the modernization of media report of the Tet offensive, the anti-war movement in the United States has grown from a few odd young people standing at a street corner to massive demonstrations right on the steps of the White House.
The war seen on television and magazines by the American public has given an impression that the American were losing against the omnipotent NVA and Vietcong guerrillas and were not able to predict the Tet offensive. The repeated negative messages on the media about losses of lives and billions of dollars wasted for the futile of war in Southeast Asia have changed the attitude of the proud and invincible Americans. Thousands of hippies flooded the streets of America with slogan "Make love not war". From there, Pham Van Dong, war time Prime Minister of Vietnam, did not hesitate to grab the opportunity to publicly state that they were winning the war right on the streets of Washington.
The Americans came to Vietnam with a worthy mission - to help protect the South Vietnamese from the aggressive Communist from the North and to setup an outpost for the free world. Ironically, with hundreds of thousands of troops in South Vietnam, the painted picture of Americans in Vietnam was altered from helpers to invaders by the proclamation of the American public that the war was a whole futile campaign. Meanwhile, Ho Chi Minh also conspired to portray the image of the Americans in Vietnam as the aggressors and of his army as the liberators to people of the South from the American invaders. In reality he was after the expansion of Communism. Conversely since the establishment of the proletarian regime in North Vietnam and there has been a general movement by the people of Vietnam against the tyranny of dictatorship during and after the anti-French war. Even today, the lives of Vietnamese are still being tightly clamped down under Communism, as human rights are ruthlessly trampled down more than ever. The thrive for freedom and democracy and respect for human rights by the Vietnamese is continuing and will not stop until the eradication of the Communist tyrants and until life can be meaningfully lived, until democracy and human rights are respected throughout the land.
The Tet offensive should be reviewed especially for those younger than 35 as this group consists of more than 50 per cent of the population and knows very little about what happened outside of the partial information recorded by American and Communist media.
Looking back at the news covered on American media and world wide the picture being seen the most is the picture of General Nguyen Ngoc Loan who shot a Viet cong captured in Saigon; the picture of the American Embassy attacked by Vietcong guerrillas and the picture of the Hue Citadel occupied by Vietcong for almost a month. Ironically, people of the world were not informed about the fact that the Vietcong shot by General Loan had massacred a whole family where the head of the family had been the General's subordinate. People were never informed about the difficulties faced by the security force to defend the American Embassy from the Vietcong's commandos. Nobody paid attention to loss of a whole Marine company of the Republic of Vietnam Armed Forces (RVNAF) in just an attempt to cross a street to regain the flagpole by the Citadel in Hue. Neither was the decapitation of nine family members of Lieutenant Colonel Tuan in the outskirts of Saigon mentioned. And worse of all, the massacre of Hue, where thousands of unarmed citizens were clubbed to death and buried alive, were treated as minor news and practically escape world's attention.
The examples above just illustrate a few flaws in the world's media as far as the coverage of the Hue massacre and the whole Vietnam war in general. The world' media have reported only half of the truth in the intention to serve some short term political agenda. It is necessary to mention this fact for the following reason:
1- To provide any independent researcher with information so that they do not have to restrict themselves with only lopsided data which will shape inaccurate conclusions.
2- To provide a reason for any scholar to carry out their research based on a more complete selection of historical facts.
3- Due to the lack of historical facts from the Republic of South Vietnam side, it is necessary to provide an accurate edited version by collecting and assessing information from the eye witnesses. We cannot continue to blame others for their partial view of the war if we remain silent. The publication of the "History of the Vietnamese Marine Corps Army of the Republic of Vietnam" was a first effort toward this goal.
4- To identify the essence of the struggle for freedom by our people, the nature of the power elite of Communist Vietnam, the intricacy of our relationship with friends and foes, our national interests versus foreigners interests, the transient nature of foreign intervention through deceptive rhetoric.
5- To remind those involved in the struggle for freedom to be on the constant alert to maintain an objective view on news reported from the media.
In retrospect, people may condemn the Vietcong for violating the truce during Tet. The only period that the general population could find a peaceful time to be with their family. However, worldwide history has shown that agreements were made to be broken and Vietcong were not the only ones doing it. Death and losses during the Tet offensive were tremendous and were inevitable things that happened during wartime. The paramount issue drawn from the Tet offensive was the brutal nature of their campaign and this reflects the barbaric rationality the Communist leaders. The beheading of nine family members, including children, in Hanh Thong Tay (near Saigon) and many similar gory executions are still in the minds of the eyewitnesses. The massacre of thousands of people in Hue was not a result of personal vendettas but was rather a strategy of terror based on the Marxist-Leninist-Stalinist determination to eliminate their enemies using "revolutionary violence". The picture of victims trapped in cages floated on rivers, decapitated, organs removed are normal Vietcong practices throughout their guerrilla warfare, to name a few. Or to imprison almost half of the population in the South, immediately after 1975 conquest, as this half are considered as enemy of the state. It is the cruelty of this regime and their fanatic policies that have caused major setbacks to both the mentality of the people and the economic growth of the country.
The damage done since 1975 far outweighed the physical destruction caused by the war. The collective effort and the tenacity of Vietnamese population, under the so called "clear-sighted leadership of the Party", has not helped the country moved forward. The brutality of the policies can be clearly extracted from Ho Chi Minh's assertion " we are willing to burn the whole Annamese cordillera (Truong Son) to liberate the South if need be."
During the period between 1979 and 1981 throughout a number of Human Rights conferences, in concert with the Human Rights activist Ginetta Sagan, the self-reproached anti-war activist Joan Baez and many International amnesty organization around the world publicly criticized the wickedly cruel policies of Communist Vietnam against their imprisonment of all South Vietnam servicemen/women in the so called "re-education camps". "It is a normal treatment that the losers should get from the winners" was the blunt defense used in Communist responses. Such reactionary defense did not gain the brutal totalitarian regime any friends.
It was not necessary to disclose all cruel treatments that Hanoi has bestowed upon its own troops - a doze of its own medicine - but a few incidents during the Tet offensive cannot be overlooked. People never questioned the reasoning behind the second offensive in May 1968 where the offensive side consisted of crippled remnant force from the first offensive back in January. These feeble attacks were promptly overcome and did not create any worldwide attention. By perusing the facts on the battle fields during the Tet offensive the answer would prick out using just common sense: Communist leaders have relentlessly sacrificed the lives of thousands of young men. For those few men that survived the loss of the first offensive wave, their lives again were forfeited in the second offensive wave. As far as Hanoi was concern, it was wise to have to continue to support the crippled demoralized remnant force. Worse than that it was not proper to have this losing force rejoined the newly recruited as their battle stories may affect the fighting spirit of those that had not been there. To kill two birds with one stone. We can now understand why NVA soldiers were chained to their tanks or artilleries and why each "bo doi" (North Vietnamese Infantry man) was given 5000 piastres (Dong) so they could spend once South Vietnam was completely occupied by the North. The mother-of -all wicked strategies: Coercion, Deception and death traps.
Since the era of "Doi Moi" Communist leaders have reiterated the "forget the past" policy. Some American veterans, now politicians, also advocate "forget the past, look forward to the future" slogan. Interestingly, it is hard for history to be forgotten when people are constantly reminded to forget the past. Those that died and were massacred during Tet Mau Than have remained silent. The war invalids from both sides of Vietnam did not have much of a voice either. Materially, properties have unjustly been confiscated and transferred within the corrupted hands under the post '75 slogan "thrive fast, thrive strong toward Socialism" and the Doi Moi slogan "Market Economy under Socialist Direction". Therefore the history that was requested to be forgotten was a convenient history that was applied only to fit the agenda of the Machiavellian totalitarians. Forget not the triumph over the American Imperialist, the leadership role of the Party and the slogan " fight Americans to save our nation" (Chong My cuu nuoc) can now be conveniently disposed - as "we need the American dollars". The fate for the "Forever friendship with our great Soviet allies" rhetoric can also be predicted. "Must we also forget about the free world" where freedom and democracy are the keys to the success in the Global Economy. And Thou shall collaborate with those economic tyrants to slowly change the political system, where freedom and democracy will permeate down to the destitute mass.
The deep wounds of the war have begun to heal for its participants. The review of Mau Than is not meant to regurgitate the ugliness of the war to the later generations. Looking back at Tet Mau Than, as a historical reference of a period in the war, to reflect and compare it with contemporary facts so a solution can be arrived for the future. What conclusions can one draw from based on the solicitous open arm policy toward the Americans today and the determination to sacrifice lives during the war then. Was the lives sacrificed, under the leadership of Communist Vietnam, in vain? Is there a difference in the image of an American teaching English, assisting in animal husbandry in Vietnam back then and the image of an American returning to Vietnam today to provide humanitarian in response to the much Communist implorations? Those South Vietnamese that had received training in the US were accused of being agents of CIA. Meanwhile those receive training from the same source today are considered as front runners of the revolution.
In conclusion, the mentioning of Tet Mau Than and the war instigated by Communist Vietnam is not more than a reminder of the ruthlessness of the Communist villains. More than half a century has passed since the Second War ended and the Jewish Holocaust has been frequently mentioned by world's media and the search for the war criminals are still continued. These exercises are preventive methods for any future atrocity recurrence, a sound reasoning. The toll of the war, labeled liberation of South Vietnam, which was really the result of Communist expansion was tabulated to close to 3 millions dead and injured according to the latest statistics from Hanoi. These statistics did not include those killed during the Land Reform (1954), the misadventure into Cambodia in the late 70's and those that died at sea in search of freedom (Boat people exodus) and those that died in concentration camps as well as those living corpse that were released from the gulags. Not to mention the dispersion of the population in a Vietnam classified as the one of the poorest and most backward country in the world.
The intensity of damage caused by the Communist in Vietnam exceeds the toll of the Jews killed by the Nazi as the destruction in Vietnam has spanned more than two generations. The Vietnam war ended near a quarter century ago, Tet Mau Than happened 30 years ago, the wickedly cruel Communist government is still here, the Communist ringleaders are still here; though their outer appearance is now "Doi Moi", no more "non coi, dep rau" (tire sandals, expedition helmet). General Le Kha Phieu a cunning, longstanding Communist member and just got elected as the First Secretary of the Communist party of Vietnam. Recently, in December 1997, Ton That Lap, the Hue massacre informer, led a group of performers to Canada and Australia to polish the image of the regime.
It is the utmost importance that our generation and the future generation aware is made of the Communist brutality during Tet Mau Than.
The city of Hue is one of the saddest cities of our earth, not simply because of what happened there in February 1968, unthinkable as that was. It is a silent rebuke to all of us, inheritors of 40 centuries of civilization, who in our century have allowed collectivist politics-abstractions all-to corrupt us into the worst of the modern sins, indifference to inhumanity.
What happened in Hue should give pause to every remaining civilized person on this planet. It should be inscribed, so as not to be forgotten, along with the record of other terrible visitations of man's inhumanity to man which stud the history of the human race.
Hue is another demonstration of what man can bring himself to do when he fixes no limits on political action and pursues incautiously the dream of social perfectibility.
What happened in Hue, physically, can be described with a few quick statistics. A Communist force which eventually reached 12,000 invaded the city the night of the new moon marking the new lunar year, January 30, 1968. It stayed for 26 days and then was driven out by military action.
In the wake of this Tet offensive, 5,800 Hue civilians were dead or missing. It is now known that most of them are dead. The bodies of most have since been found in single and mass graves throughout Thua Thien Province which surrounds this cultural capital of Vietnam.
Such are the skeletal facts, the important statistics. Such is what the incurious word knows any thing at all about Hue, for this is what was written, modestly by the word's press. Apparently it made no impact on the world's mind or conscience. For there was no agonized outcry. No demonstration at North Vietnamese embassies around the world.
In a tone beyond bitterness, the people there will tell you that the world does not know what happened in Hue or, if it does, does not care
The Battle
The Battle of Hue was part of the Communist Winter-Spring campaign of 1967-68. The entire campaign was divided into three phases:
Phase I came in October, November, and December of 1967 and entailed "coordinated fighting methods," that is, fairly large, set- piece battles against important fixed installations or allied concentrations. The battles of Loc Ninh in Binh Long Province, Dak To in Kontum Province, and Con Tien in Quang Tri Province, all three in the mountainous interior of South Vietnam near the Cambodian and Lao borders, were typical and, in fact, major elements in Phase I.
Phase II came in January, February, and March of 1968 and involved great use of "independent fighting methods," that is, large numbers of attacks by fairly small units, simultaneously, over a vast geographic area and using the most refined and advanced techniques of guerrilla war. Whereas Phase I was fought chiefly with North Vietnamese Regular (PAVN) troops (at that time some 55,000 were in the South), Phase II was fought mainly with Southern Communist (PLAF) troops. The crescendo of Phase II was the Tet offensive in which 70,000 troops attacked 32 of South Vietnam's largest population centres, including the city of Hue.
Phase III, in April, May, and June of 1968, originally was to have combined the independent and coordinated fighting methods, culminating in a great fixed battle somewhere. This was what captured documents guardedly referred to as the "second wave". Possibly it was to have been Khe Sanh, the U.S. Marine base in the far northern corner of South Vietnam. Or perhaps it was to have been Hue. There was no second wave chiefly because events in Phases I and II did not develop as expected. Still, the war reached its bloodiest tempo in eight years then, during the period from the Battle of Hue in February until the lifting of the siege of Khe Sanh in late summer.
American losses during those three months averaged nearly 500 killed per week; the South Vietnamese (GVN) losses were double that rate; and the PAVN-PLAF losses were nearly eight times the American loss rate.
In the Winter-Spring Campaign, the Communists began with about 195,000 PLAF main force and PAVN troops. During the nine months they lost (killed or permanently disabled) about 85,000 men.
The Winter-Spring Campaign was an all-out Communist bid to break the back of the South Vietnamese armed forces and drive the government, along with the Allied forces, into defensive city enclaves. Strictly speaking, the Battle of Hue was part of Phase I rather than Phase II since it employed "co-ordinated fighting methods" and involved North Vietnamese troops rather than southern guerrillas. It was fought, on the Communist side, largely by two veteran North Vietnamese army divisions: The Fifth 324-B, augmented by main forces battalions and some guerrilla units along with some 150 local civilian commissars and cadres.
Briefly the Battle of Hue consisted of these major developments:
The initial Communist assault, chiefly by the 800th and 802nd battalions, had the force and momentum to carry it across Hue. By dawn of the first day the Communists controlled all the city except the headquarters of the First ARVN Division and the compound housing American military advisors. The Vietnamese and Americans moved up reinforcements with orders to reach the two holdouts and strengthen them. The Communists moved up another battalion, the 804th, with orders to intercept the reinforcement forces. This failed, the two points were reinforced and never again seriously threatened.
The battle then took on the aspects of a siege. The Communists were in the Citadel and on the western edge of the city. The Vietnamese and Americans on the other three sides, including that portion of Hue south of the river, determined to drive them out, hoping initially to do so with artillery fire and air strikes. But the Citadel was well built and soon it became apparent that if the Communists' orders were to hold, they could be expelled only by city warfare, fighting house by house and block by block, a slow and costly form of combat. The order was given.
By the third week of February the encirclement of the Citadel was well under way and Vietnamese troops and American Marines were advancing yard by yard through the Citadel. On the morning of February 24, Vietnamese First Division soldiers tore down the Communist flag that had flown for 24 days over the outer wall and hoisted their own. The battle was won, although sporadic fighting would continue outside the city. Some 2,500 Communists died during the battle and another 2,500 would die as Communists elements were pursued beyond Hue. Allied dead were set at 357.
The Finds
In the chaos that existed following the battle, the first order of civilian business was emergency relief, in the form of food shipments, prevention of epidemics, emergency medical care, etc. Then came the home rebuilding effort. Only later did Hue begin to tabulate its casualties. No true post-attack census has yet been taken. In March local officials reported that 1,900 civilians were hospitalized with war wounds and they estimated that some 5,800 persons were unaccounted for.
The first discovery of Communist victims came in the Gia Hoi High School yard, on February 26 ; eventually 170 bodies were recovered.
In the next few months 18 additional grave sites were found, the largest of which were Tang Quang Tu Pagoda (67 victims), Bai Dau (77), Cho Thong area (an estimated 100), the imperial tombs area (201), Thien Ham (approximately 200), and Dong Gi (approximately 100). In all, almost 1,200 bodies were found in hastily dug, poorly concealed graves.
At least half of these showed clear evidence of atrocity killings: hands wired behind backs, rags stuffed in mouths, bodies contorted but without wounds (indicating burial alive). The other nearly 600 bore wound marks but there was no way of determining whether they died by firing squad or incidental to the battle.
The second major group of finds was discovered in the first seven months of 1969 in Phu Thu district-the Sand Dune Finds and Le Xa Tay-and Huong Thuy district-Xuan Hoa-Van Duong-in late March and April. Additional grave sites were found in Vinh Loc district in May and in Nam Hoa district in July.
The largest of this group were the Sand Dune Finds in the three sites of Vinh Luu, Le Xa Dong and Xuan 0 located in rolling, grasstufted sand dune country near the South China Sea. Separated by salt-marsh valleys, these dunes were ideal for graves. Over 800 bodies were uncovered in the dunes.
In the Sand Dune Find, the pattern had been to tie victims together in groups of 10 or 20, line them up in front of a trench dug by local corvee labour and cut them down with submachine gun (a favourite local souvenir is a spent Russian machine gun shell taken from a grave). Frequently the dead were buried in layers of three and four, which makes identification particularly difficult.
In Nam Hoa district came the third, or Da Mai Creek Find, which also has been called the Phu Cam death march, made on September 19, 1969. Three Communist defectors told intelligence officers of the 101st Airborne Brigade that they had witnessed the killing of several hundred people at Da Mai Creek, about 10 miles south of Hue, in February of 1968. The area is wild, unpopulated, virtually inaccessible. The Brigade sent in a search party, which reported that the stream contained a large number of human bones.
By piecing together bits of information, it was determined that this is what happened at Da Mai Creek: On the fifth day of Tet in the Phu Cam section of Hue, where some three-quarters of the City's 40,000 Roman Catholics lived, a large number of people had taken sanctuary from the battle in a local church, a common method in Vietnam of escaping war. Many in the building were not in fact Catholic.
A Communist political commissar arrived at the church and ordered out about 400 people, some by name and some apparently because of their appearance (prosperous looking and middle-aged businessmen, for example). He said they were going to the "liberated area" for three days of indoctrination, after which each could return home.
They were marched nine kilometres south to a pagoda where the Communists had established a headquarters. There 20 were called out from the group, assembled before a drumhead court, tried, found guilty, executed and buried in the pagoda yard. The remainder were taken across the river and turned over to a local Communist unit in an exchange that even involved banding the political commissar a receipt. It is probable that the commissar intended that their prisoners should be re-educated and returned, but with the turnover, matters passed from his control.
During the next several days, exactly how many is not known, both captive and captor wandered the countryside. At some point the local Communists decided to eliminate witnesses: Their captives were led through six kilometres of some of the most rugged terrain in Central Vietnam, to Da Mai Creek. There they were shot or brained and their bodies left to wash in the running stream.
The 101st Airborne Brigade burial detail found it impossible to reach the creek overland, roads being non-existent or impassable. The creek's foliage is what in Vietnam is called double-canopy, that is, two layers, one consisting of brush and trees close to the ground, and the second of tall trees whose branches spread out high above. Beneath is permanent twilight. Brigade engineers spent two days blasting a hole through the double-canopy by exploding dynamite dangled on long wires beneath their hovering helicopters. This cleared a landing pad for helicopter hearses. Quite clearly this was a spot where death could be easily hidden even without burial.
The Da Mai Creek bed, for nearly a hundred yards up the ravine, yielded skulls, skeletons and pieces of human bones. The dead had been left above ground (for the animists among them, this meant their souls would wander the lonely earth forever, since such is the fate of the unburied dead), and 20 months in the running stream had left bones clean and white.
Local authorities later released a list of 428 names of persons whom they said had been positively identified from the creek bed remains. The Communists' rationale for their excesses was elimination of "traitors to the revolution." The list of 428 victims breaks down as follows: 25 per cent military: two officers, the rest NCO's and enlisted men; 25 per cent students; 50 per cent civil servants, village and hamlet officials, service personnel of various categories, and ordinary workers.
The fourth or Phu Thu Salt Flat Finds came in November, 1969, near the fishing village of Luong Vien some ten miles east of Hue, another desolate region. Government troops early in the month began an intensive effort to clear the area of remnants of the local Communist organization. People of Luong Vien, population 700, who had remained silent in the presence of troops for 20 months apparently felt secure enough from Communist revenge to break silence and lead officials to the find. Based on descriptions from villagers whose memories are not always clear, local officials estimate the number of bodies at Phu Thu to be at least 300 and possibly 1,000.
The story remains uncompleted. If the estimates by Hue officials are even approximately correct, nearly 2,000 people are still missing. Re-capitulation of the dead and missing
After the battle, the GVN's total estimated civilian casualties resulting from Battle of Hue 7600
Wounded (hospitalized or outpatients) with injures attributable to warfare -1900
Estimated civilian deaths due to accident of battle -844
First finds-bodies discovered immediately post battle, 1968 -1173
Second finds, including Sand Dune finds, March-July, 1969 (est.) -809
Third find, Da Mai Creek find (Nam Hoa district) September, 1969 -428
Fourth Finds-Phu Thu Salt Flat find, November, 1969 (est.) -300
Miscellaneous finds during 1969 (approximate) -100
TOTAL YET UNACCOUNTED FOR 1946
[1] SEATO: South East Asia Treaty Organization.
[2] PAVN: People's Army of Vietnam, soldiers of North Vietnam Army serving in the South, number currently 105,000.
[3] PLAF: People's Liberation Armed Force, Formerly called the National Liberation Front Army.
Communist Rationale
The killing in Hue that added up to the Hue Massacre far exceeded in numbers any atrocity by the Communists previously in South Vietnam. The difference was not only one in degree but one in kind. The character of the terror that emerges from an examination of Hue is quite distinct from Communist terror acts elsewhere, frequent or brutal as they may have been.
The terror in Hue was not a morale building act-the quick blow deep into the enemy's lair which proves enemy vulnerability and the guerrilla's omnipotence and which is quite different from gunning down civilians in areas under guerrilla control. Nor was it terror to advertise the cause. Nor to disorient and psychologically isolate the individual, since the vast majority of the killings were done secretly. Nor, beyond the blacklist killings, was it terror to eliminate opposing forces.
Hue did not follow the pattern of terror to provoke governmental over-response since it resulted in only what might have been anticipated-government assistance. There were elements of each objective, true, but none serves to explain the widespread and diverse pattern of death meted out by the Communists.
What is offered here is a hypothesis which will suggest logic and system behind what appears to be simple, random slaughter. Before dealing with it, let us consider three facts which constantly reassert themselves to a Hue visitor seeking to discover what exactly happened there and, more importantly, exactly why it happened. All three fly in the face of common sense and contradict to a degree what has been written. Yet, in talking to all sources-province chief, police chief, American advisor, eye witness, captured prisoner, hoi chanh (defector) or those few who miraculously escaped a death scene-the three facts emerge again and again.
The first fact, and perhaps the most important, is that despite contrary appearances virtually no Communist killing was due to rage, frustration, or panic during the Communist withdrawal at the end. Such explanations are frequently heard, but they fail to hold up under scrutiny. Quite the contrary, to trace back any single killing is to discover that almost without exception it was the result of a decision rational and justifiable in the Communist mind. In fact, most killings were, from the Communist calculation, imperative.
The second fact is that, as far as can be determined, virtually all killings were done by local Communist cadres and not by the ARVN troops or Northerners or other outside Communists. Some 12,000 ARVN troops fought the battle of Hue and killed civilians in the process but this was incidental to their military effort. Most of the 150 Communist civilian cadres operating within the city were local, that is from the Thua Thien province area. They were the ones who issued the death orders.
Whether they acted on instructions from higher headquarters (and the Communist organizational system is such that one must assume they did), and, if so, what exactly those orders were, no one yet knows for sure.
The third fact is that beyond "example" executions of prominent "tyrants", most of the killings were done secretly with extraordinary effort made to hide the bodies. Most outsiders have a mental picture of Hue as a place of public executions and prominent mass burial mounds of fresh-turned earth. Only in the early days were there well-publicized executions and these were relatively few. The burial sites in the city were easily discovered because it is difficult to create a graveyard in a densely populated area without someone noticing it. All the other finds were well hidden, all in terrain lending itself to concealment, probably the reason the sites were chosen in the first place.
A body in the sand dunes is as difficult to find as a seashell pushed deep into a sandy beach over which a wave has washed. Da Mai Creek is in the remotest part of the province and must have required great exertion by the Communists to lead their victims there. Had not the three hoi chanh led searchers to the wild uninhabited spot the bodies might well remain undiscovered to this day. A visit to all sites leaves one with the impression that the Communists made a major effort to hide their deeds.
The hypothesis offered here connects and fixes in time the Communist assessment of their prospects for staying in Hue with the kind of death order issued. It seems clear from sifting evidence that they had no single unchanging assessment with regard to themselves and their future in Hue, but rather that changing situations during the course of the battle altered their prospects and their intentions.
It also seems equally clear from the evidence that there was no single Communist policy on death orders; instead the kind of death order issued changed during the course of the battle. The correlation between these two is high and divides into three phases. The hypothesis therefore is that as Communist plans during the Battle of Hue changed so did the nature of the death orders issued. This conclusion is based on overt Communist statements, testimony by prisoners1 and hoi chanh, accounts of eyewitnesses, captured documents and the internal logic of the Communist situation.
Thinking in Phase I was well expressed in a Communist Party of South Vietnam (PRP) resolution issued to cadres on the eve of the offensive:
"Be sure that the liberated ... cities are successfully consolidated. Quickly activate armed and political units, establish administrative organs at all echelons, promote (civilian) defence and combat support activities, get the people to establish an air defence system and generally motivate them to be ready to act against the enemy when he counterattacks..."
This was the limited view at the start - held momentarily. Subsequent developments in Hue were reported in different terms. Hanoi Radio on February 4 said: "After one hour's fighting the Revolutionary Armed Forces occupied the residence of the puppet provincial governor (in Hue), the prison and the offices of the puppet administration... The Revolutionary Armed Forces punished most cruel agents of the enemy and seized control of the streets... rounded up and punished dozen of cruel agents and caused the enemy organs of control and oppression to crumble..."
During the brief stay in Hue, the civilian cadres, accompanied by execution squads, were to round up and execute key individuals whose elimination would greatly weaken the government's administrative apparatus following Communist withdrawal. This was the blacklist period, the time of the drumhead court. Cadres with lists of names and addresses on clipboards appeared and called into kangaroo court various "enemies of the Revolution."
Their trials were public, usually in the court-yard of a temporary Communist headquarters. The trials lasted about ten minutes each and there are no known not-guilty verdicts. Punishment, invariably execution, was meted out immediately. Bodies were either hastily buried or turned over to relatives. Singled out for this treatment were civil servants, especially those involved in security or police affairs, military officers and some non-commissioned officers, plus selected non-official but natural leaders of the community, chiefly educators and religionists.
With the exception of a particularly venomous attack on Hue intellectuals, the Phase I pattern was standard operating procedure for Communists in Vietnam. It was the sort of thing that had been going on systematically in the villages for ten years. Permanent blacklists, prepared by zonal or inter-zone party headquarters have long existed for use throughout the country, whenever an opportunity presents itself.
However, not all the people named in the lists used in Hue were liquidated. There were a large number of people who obviously were listed, who stayed in the city throughout the battle, but escaped. Throughout the 24-day period the Communist cadres were busy hunting down persons on their blacklists, but after a few days their major efforts were turned into a new channel.
Hue: Phase II
In the first few days, the Tet offensive affairs progressed so well for the Communists in Hue (although not to the south, where party chiefs received some rather grim evaluations from cadres in the midst of the offensive in the Mekong Delta) that for a brief euphoric moment they believed they could hold the city. Probably the assessment that the Communists were in Hue to stay was not shared at the higher echelons, but it was widespread in Hue and at the Thua Thien provincial level. One intercepted Communist message, apparently written on February 2, exhorted cadres in Hue to hold fast, declaring; "A new era, a real revolutionary period has begun (because of our Hue victories) and we need only to make swift assault (in Hue) to secure our target and gain total victory." The Hanoi official party newspaper, Nhan Dan, echoed the theme: "Like a thunderbolt, a general offensive has been hurled against the U.S. and the puppets... The U.S.-puppet machine has been duly punished. The puppet administrative organs... have suddenly collapsed. The Thieu-Ky administration cannot escape from complete collapse. The puppet troops have become extremely weak and cannot avoid being completely exterminated."
Of course, some of this verbiage is simply exhortation to the faithful, and, as is always the case in reading Communist output, it is most difficult to distinguish between belief and wish. But testimony from prisoners and hoi chanh, as well as intercepted battle messages, indicate that both rank and file and cadres believed for a few days they were permanently in Hue, and they acted accordingly.
Among their acts was to extend the death order and launch what in effect was a period of social reconstruction, Communist style. Orders went out, apparently from the provincial level of the party, to round up what one prisoner termed "social negatives," that is, those individuals or members of groups who represented potential danger or liability in the new social order. This was quite impersonal, not a blacklist of names but a blacklist of titles and positions held in the old society, directed not against people as such but against "social units."
As seen earlier in North Vietnam and in Communist China, the Communists were seeking to break up the local social order by eliminating leaders and key figures in religious organizations (Buddhist bonzes, Catholic priests), political parties (four members of the Central Committee of Vietnam), social movements such as women's organizations and youth groups, including what otherwise would be totally inexplicable, the execution of pro-Communist student leaders from middle and upper class families.
In consonance with this, killing in some instances was done by family unit. In one well-documented case during this period a squad with a death order entered the home of a prominent community leader and shot him, his wife, his married son and daughter-in-law, his young unmarried daughter, a male and female servant and their baby. The family cat was strangled; the family dog was clubbed to death; the goldfish scooped out of the fish-bowl and tossed on the floor. When the Communists left, no life remained in the house. A "social unit" had been eliminated.
Phase II also saw an intensive effort to eliminate intellectuals, who are perhaps more numerous in Hue than elsewhere in Vietnam. Surviving Hue intellectuals explain this in terms of a long-standing Communist hatred of Hue intellectuals, who were anti-Communist in the worst or most insulting manner: they refused to take Communism seriously. Hue intellectuals have always been contemptuous of Communist ideology, brushing it aside as a latecomer to the history of ideas and not a very significant one at that.
Hue, being a bastion of traditionalism, with its intellectuals steeped in Confucian learning intertwined with Buddhism, did not, even in the fermenting years of the 1920s, and 1930s, debate the merits of Communism. Hue ignored it. The intellectuals in the university, for example, in a year's course in political thought dispense with Marxism-Leninism in a half hour lecture, painting it as a set of shallow barbarian political slogans with none of the depth and time-tested reality of Confucian learning, nor any of the splendor and soaring humanism of Buddhist thought.
Since the Communist, especially the Communist from Hue, takes his dogma seriously, he can become demoniac when dismissed by a Confucian as a philosophic ignoramus, or by a Buddhist as a trivial materialist. Or, worse than being dismissed, ignored through the years. So with the righteousness of a true believer, he sought to strike back and eliminate this challenge of indifference. Hue intellectuals now say the hunt-down in their ranks has taught them a hard lesson, to take Communism seriously, if not as an idea, at least as a force loose in their world.
The killings in Phase II perhaps accounted for 2,000 of the missing. But the worst was not yet over.
Hue: Phase III
Inevitably, and as the leadership in Hanoi must have assumed all along, considering the forces ranged against it, the battle in Hue turned against the Communists. An intercepted PAVN radio message from the Citadel, February 22, asked for permission to withdraw. Back came the reply: permission refused, attack on the 23rd. That attack was made, a last, futile one. On the 24th the Citadel was taken.
That expulsion was inevitable was apparent to the Communists for at least the preceding week. It was then that Phase III began, the cover-the-traces period. Probably the entire civilian underground apparat in Hue had exposed itself during Phase II. Those without suspicion rose to proclaim their identity. Typical is the case of one Hue resident who described his surprise on learning that his next door neighbour was the leader of a phuong (which made him 10th to 15th ranking Communist civilian in the city), saying in wonder, "I'd known him for 18 years and never thought he was the least interested in politics." Such a cadre could not go underground again unless there was no one around who remembered him.
Hence Phase III, elimination of witnesses.
Probably the largest number of killings came during this period and for this reason. Those taken for political indoctrination probably were slated to be returned. But they were local people as were their captors; names and faces were familiar. So, as the end approached they became not just a burden but a positive danger. Such undoubtedly was the case with the group taken from the church at Phu Cam. Or of the 15 high school students whose bodies were found as part of the Phu Thu Salt Flat find.
Categorization in a hypothesis such as this is, of course, gross and at best only illustrative. Things are not that neat in real life. For example, throughout the entire time the blacklist hunt went on. Also, there was revenge killing by the Communists in the name of the party, the so-called "revolutionary justice." And undoubtedly there were personal vendettas, old scores settled by individual party members.
The official Communist view of the killing in Hue was contained in a book written and published in Hanoi:
"Actively combining their efforts with those of the PLAF and population, other self-defence and armed units of the city (of Hue) arrested and called to surrender the surviving functionaries of the puppet administration and officers and men of the puppet army who were skulking. Die-hard cruel agents were punished."
The Communist line on the Hue killings later at the Paris talks was that it was not the work of Communists but of "dissident local political parties". However, it should be noted that Hanoi's Liberation Radio April 26, 1968, criticized the effort in Hue to recover bodies, saying the victims were only "hooligan lackeys who had incurred blood debts of the Hue compatriots and who were annihilated by the Southern armed forces and people in early Spring." This propaganda line however was soon dropped in favour of the line that it really was local political groups fighting each other.
The Hue Massacre Under the Eyes of Foreign Reporters
AN EFFICIENT SLAUGHTER
(Vietnam a History, Stanley Karnow, Viking Press, NY, 1983, p. 530-531)
The Communists executed hundreds of civilians during their Tet offensive, but the slaughter was particularly marked in and around Hue, where estimates of those put to death range from 200 to 400 British Journalist Stewart Harris, who opposes U.S. policy in Vietnam and declares that "my instinct is not to sustain it by writing propaganda," recently visited Hue' and vicinity to investigate the executions. Last week he reported his findings in the Times of London:
The North Vietnamese army and the Viet Cong executed many Vietnamese, some Americans and a few other foreigners during the fighting in and around Hue. I am sure of this after spending several days in Hue investigating allegations of killings and torture. I saw and photographed a lot for myself, but inevitably I relied on many civilians and soldiers, Vietnamese, Americans, Australians and others. All seemed honest witnesses, telling the truth as they believed it.
On a lovely sunny afternoon in the green valley of Nam Hoa, about ten miles southwest of Hue, I was with Warrant Officer Ostara, an Australian adviser with the South Vietnam army standing on the sloping sides of a recently dug hole. In the bottom were rush mats over sheets of plastics. Ostara drew them back and I saw two bodies, dead Vietnamese, with their arms tied behind their backs just above the elbows. They had been shot through the back of the head, the bullet coming out through the mouth. The faces would have been difficult to recognize, but the day before 27 women from the village walked out three miles carrying mattocks to dig for their missing husbands and sons, having heard about this patch of disturbed earth near the roadside. Ostara told me that the enemy had come through on their way to Hue. They had taken 27 men. Some were leaders and some were younger strong enough to be porters or even ancillary soldiers.
"Men were simply condemned by drumhead courts and executed as enemies of the people," said Bob Kelly, the senior province adviser in Thua Thien province. "These were the leaders, often quite small men. Others were executed when their usefulness ceased, or when they didn't Cooperate they were shot for their trouble. Some of my staff were badly mutilated, but I am inclined to believe this was done after they were killed. Their hands were tied and they were shot behind the head I helped to dig one body out, but I have been told by Vietnamese whom I respect that some people were buried alive."
Lieut. Gregory Sharp. an American adviser with the Vietnam 21st Ranger Battalion, told me that his men had come across about 25 new graves in a cemetery five miles east of Hue on March 14. From half a dozen of the graves the heads were sticking up out of the sandy soil and, according to Sharp, "there wasn't much left of them-buzzards and dogs, I suppose. Some had been shot in the head and some hadn't. They had been buried alive. I think. There were sort of scratches in the sand in one place, as if someone had clawed his way out." At Quan Ta Ngan three Australian warrant officers saw seven men in one of three graves they found. The seven. I was told, had been shot one after the other, through the back of the head, hands tied.
Soon after arriving in Hue' I went in a Jeep with three Viet Nam officers to inspect sites where the bodies of executed men were said to have been found. We went first to Gia Hoi high school in District Two, east of the citadel. Here 22 new graves had been found, each containing between three and seven bodies. It is still a horrifying place. The officers told me that the bodies had been tied and, again. Most had been shot through the head, but "some had been buried alive."
There are about 40,000 Roman Catholic Vietnamese in Hue'. What happened to them? About three-quarters of the Roman Catholics in Hue' live in Phu Cam, on the southern outskirts of the city. They resisted strongly when the enemy came in, and some were executed. Four Viet Nam priests were taken away and three foreign priests were killed. Two French priests were actually given permission by the Viet Cong to return to Phu Cam and help the sisters-and then they were shot on the way back. Another French priest was executed, perhaps because he was chaplain to the Americans.
Summing up all this evidence about the behavior of the Viet Cong and the North Vietnamese army in Hue one thing is abundantly clear and ought to surprise no one. They put into practice, with their usual efficiency the traditional Communist policy of punishing by execution selected leaders who support their enemies. In Hue, as elsewhere, they were unable on the whole to capture and execute the more important officials, because these men were careful to protect themselves in heavily fortified compounds, defended by soldiers and police. In Hue, as elsewhere, the more defenseless "little people' were the victims-the village and hamlet chiefs, the teachers and the policemen. Already most of these positions have been filled again, and I find it impossible to write adequately about the courage of men who succeed the executed.
The world renown historian, Stanley Karnow, and an authority in the Vietnam War History has revealed many details of the Tet offensive and the Hue massacre.
Five months before, as they began to prepare for the assault planners and their intelligence agents inside the city compiled two lists. One detailed nearly two hundred targets ranging from such installations as government bureaus and posts to the home of the district chief's concubine. The other contained the names of "cruel tyrants and reactionary elements," a rubric covering civilian functionaries, army officers, and nearly anybody else linked to the South Vietnamese regime as well as uncooperative merchants, intellectuals and clergymen. Instructions were also issued to arrest Americans other foreigners except for the French-presumably because President de Gaulle had publicly criticized U.S. policy in Vietnam.
Vietcong teams, armed with these directives, conducted house to house searches immediately after seizing control of Hue, and they were merciless. During the months and years that followed, the remains of approximately three thousand people were exhumed in beds, coastal salt flats, and jungle clearings. The victims had been shot or clubbed to death, or buried alive. Paradoxically, the American public barely noticed these atrocities, preoccupied as it was by the incident at Mylai-in which American soldiers had massacred a hundred Vietnamese peasants, women and children among them. Revisiting Vietnam in 1981, I was able to elicit little credible evidence from the Communists clarify the episode.
Captured in the home of Vietnamese friends, Stephen Miller of the U.S. Information Service was shot in a field behind a Catholic seminary Dr. Horst Gunther Krainick, a German physician teaching at the local medical school, was seized with his wife and two other German doctors and their bodies were found in a shallow pit. Despite their instruction to spare the French, the Communists arrested two Benedictine missionary, shot one of them, and buried the other alive. They also killed Father Buu Dong, a popular Vietnamese Catholic priest who had entertained Vietcong agents in his rectory, where he kept a portrait of Ho Chi Minh -telling parishioners that he prayed for Ho because "he is our friend too." Many Vietnamese with only the flimsiest ties to Saigon regime suffered as well Pham Van Tuong, a part-time janitor at a government office, was gunned down in his front yard along with his two small children. Mrs. Nguyen Thi Lao, a cigarette vendor, was presumably executed because her sister worked in a government bureau. Anyone resisting arrest was promptly killed, but those who surrendered to the Communists often fared no better. Five South Vietnamese officers, who emerged from their hiding place without a fight, were taken to a high school playground and each shot in the head. Many people disappeared after submitting to Vietcong promises of a quick release, as one woman later recalled: "The Communists came to our house and questioned my father who was an elderly official about to retire. Then they went away returning afterward to say that he had to attend a study a study session that would last only ten days. My mother and I were worried because the Communists had arrested his father in just that way in 1946. Like his father my father never came back."
"The Vietnam Experience"
(Clark Dougan & Stephen Weiss, "The Vietnam Experience 1968", Boston Publishing Company, Boston, MA, p. 36)
The full story of what happened in Hue between January 31 and February 25,1968, may never be known. But the preponderance of evidence, including the testimony of many survivors, indicates that Communist forces did in fact carry out systematic assassinations. The most persuasive case is that made by reporter Don Oberdorfer of the Washington Post in his authoritative work, Tet! Following up rumors of large-scale executions behind enemy lines, Oberdorfer made three visits to Hue-one during the battle, another just after, and a third in December 1969 "to reconstruct the experiences of the Hue people". Their pseudonymous accounts of the fates of relatives, neighbors, and friends-some of which have been recounted in this chapter- left no doubt in Orberdorfer' mind that mass executions have been carried out by the communists.
"Aftermath" chapter of the "Battle for Hue"
(Keith William Nolan, "Battle for Hue", Presidio Press 1983, p. 183-184)
Soon after the battle, the South Vietnamese government initiated Operation Recovery, a 90-day relief and reconstruction effort aimed at the entire I Corps, but focused primarily on Hue. It brought food, clothing, shelter, and medical attention to that city's estimated 116,000 refugees (out of a population of 140,000). By the end of the year, life in Hue was relatively back to normal. As Major Swenson noted, "My final duties as liaison officer entailed taking visitors to Task Force X-RAY through the city on a guided tour. The city was not destroyed in the Tet Offensive. It was damaged, but still beautiful."
The war had finally come to the people of Hue - and they paid the price. As Hue pulled itself out of the mess, one bloody sidelight of the battle was uncovered, something worse than refugees and cross-fire deaths: the Viet Cong and North Vietnamese had massacred many of the people of Hue during their occupation. Over the years, the evidence was collected in bits and pieces; the discovery of mass graves, captured communist documents, statements by prisoners of war. It was learned that with the typical cold-blooded efficiency of the Communists, the VC had gone into Hue with lists of so-called Enemies of the People. Those marked included government officials, city administrators, intellectuals, teachers, college students, soldiers, foreigners - and their families - all those suspected of being potential enemies of the communist cause. There was one other category: all those who could identify the VC infrastructure now that it had surfaced for the Tet Offensive. That could include any innocent bystander. The people were rounded up and some were executed in the city. When the fight was obviously being lost by the VC, they marched their political prisoners outside the city to different sites and killed them. Some were buried alive. Great pains were taken by the Communists to conceal their work, and it took a year for the allies to put the pieces together. The South Vietnamese government finally recovered three thousand bodies in mass graves around Hue. Another two thousand people were still unaccounted for.
The 1968 Hue Massacre: Lessons Learned
For the last half century, Vietnamese are the most ill-fated people.
During the Second World War the Vietnamese were caught in the power struggle between the French and the Japanese and the toll was the starvation of more than a million people. From 1946 to 1975 many more became victims of the Anti-French war followed by the Vietnam conflict.
Besides the incidental victims of the war, many lives were needlessly sacrificed for the so called "Communist Revolutionary", namely:
1.The Land Reform in the 50' s.
2.The Viet cong terrorism in the 60' s, where Mau Than massacre was at its height.
3.The Viet cong cruel policies have caused many people to suffer and die in concentration camps throughout the whole country. Coupled with those who lost the lives (Boat People) at sea in search of freedom.
In the wake of the demise of Communism, Ha Noi had to confess and accepted its mistakes about the Land Reform policy and had to end its brutal policy in South Vietnam during the first years after 1975.
But, in the issue of respecting human lives, social equality, and keeping their promises, the Communist regime is found at where it was 30 years ago. This is the reason why people continue to be oppressed and terrorized.
By that very reason, to understand and to remember what actually happened in the Mau Than massacre will help contribute toward the effort of bringing the serious mistake of the past to the light - in hope to prevent such mistakes from recurring.
Having found out the criminals that were responsible for the Mau Than bloody massacre, will not only do console to the victims' soul, but will also prevent those who are in charge of governing Vietnam from repeating these crimes.
May this document be a contribution to the effort of keeping any individual from using the name of a doctrine, a political party or a government as a convenience to violate the basic Human Rights. It is the essence of the ill-attitude of the disregard for Human Rights that easily leads to the crimes against humanity: A Crime that the Communist Party of Vietnam must admit to have committed in the past half century, especially those of the Mau Than Massacre.
Misreporting That Doomed Millions
On July 26, 1977, a man who was until recently a member of what passes for a legislature in Hanoi testified before a subcommittee of our House of Representatives. He had just flown to Washington from Japan, after having fled from Vietnam by fishing boat. He abandoned his family and risked his life in a small boat on the open seas, because, he said, he felt impelled to tell the world about the tragedy that had befallen his country, South Vietnam.
This man, Nguyen Cong Hoan, had previously been a member of the National Assembly in Saigon prior to the Communist takeover of the South. He had been opposed to the Thieu government, opposed to the war and sympathetic to the Communists. The Communists had rewarded him by selecting him as one of the members of the legislature in Hanoi. He became a member of the privileged class, but he soon became disillusioned and alarmed by the Communist policies and practices.
The much feared but generally unreported Communist bloodbath was carried out in his province, Phu Yen, in the early days of the takeover, he said. He estimated that 500 people were killed in the early stages and 200 since then. He said that so many of his friends and acquaintances had been arrested that he could not count them. One such acquaintance, a communist sympathizer, was arrested simply because he had received a letter from abroad, even though he immediately reported it to the local authorities. All the private schools had been closed, and all the religions were being persecuted. The most serious violation of human fights, he said, was the constant threat to human life. Anyone could be killed at any time for the most improbable reunion.
For example, a Buddhist monk who had been an adviser to the Vietcong was executed as a CIA agent because he had received a letter of appreciation from the American Consul- ate for having helped in the search for American MIAs.
Mr. Hoan said that as much as the Vietnamese hate war, they are now ready to continue the struggle for many more years to try to liberate themselves from "the most inhuman and oppressive regime they have ever known."
Just before Mr. Hoan testified, Congressman Donald Fraser's subcommittee had heard testimony from Assistant Secretary of State Richard Holbrooke and from Charles Twining, a State Department expert on Cambodia. Mr. Holbrooke officially confirmed what has long been known about the incredible suffering of the Cambodian people under the Communists. Mr. Twining, who said that he had interviewed thousands of escapees from Cambodia, said that the policy of the Cambodian Reds is to kill everyone with a seventh grade education or more. He said be had never heard of a single trial. People were simply taken away and murdered, usually by administering a blow on the back of the bead with a club. Mr. Twining said that the number of deaths from disease and starvation was a large multiple of the number killed by the Communists directly. Many of those deaths could have been prevented if it had not been for the harsh and inhumane policies of the new rulers of Cambodia.
They Gave Their Lives In Vain
Over 50,000 Americans gave their lives to prevent this disastrous development in Southeast Asia. We spent billions of dollars to honor a commitment to defend the freedom of the Vietnamese people. We owe those who gave their lives in vain at least an honest effort to understand why we failed to achieve our objective.
One reason was that there were in Vietnam too many people like Nguyen Cong hoan who did not understand what a Communist victory would mean. Hoan, an educated man, has said that he honestly thought that things would be better under the Communists than they were under Thieu. He could learn only from bitter experience.
But another reason for our failure has been laid out for all to see in a new book about the performance of the American news media in the Vietnam war, and specifically about its handling of a crucial turning point in the war, the Tet offensive.
The book is called Big Story. It is the work of Peter Brae- strop, who was a reporter for the Washington Post in Saigon at the time of the Tet offensive in 1968, and who previously was a correspondent for The New York Times. In this richly documented work, Braestrap shows how the military defeat suffered by the Vietcong and the American media into a political defeat for the United States transformed North Vietnamese in the period January 31 to March 31, 1968.
After the communist takeover in April 1975, James Reston of The New York Times wrote proudly that American correspondents and cameramen had forced the withdrawal of American military power from Vietnam. Braestrup has taken one of the key periods in the war and has shown just how the power of the media offset the power of our arms.
Ben Tre: Did Being Destroyed Save It?
One of the most famous quotes of the Vietnam War was a statement attributed to an anonymous American major by AP correspondent Peter Aroett. Writing about the provincial capital, Ben Tre, on February 7, 1968, Arnett said: "'it became necessary to destroy the town to save it,' a U.S. major says."
Braestrup says of this much used and abused sentence: "Arnett's quote passed quickly into the overheated rhetoric of the Vietnam debate back home. It was cited, paraphrased, reshaped, misattributed, and used for years as an all-purpose description of the war . . . Senator Albert Gore restated it: 'A military victory can only be achieved by the destruction of what we profess to seek to save.' Abe applied it to the battle of Hue: 'Marine officers concede that it may be necessary to rip apart, destroy the beautiful Citadel in order to save it.' Drew Pearson used it: 'In other words, to save Vietnam we must almost destroy it.' The New Republic reworked the quote and attributed it to Major Brown: 'Helicopter and bomber attacks on Ben Tre were directed by Maj. Chester L. Brown of Erie, Pennsylvania, who said to the Associated Press that 'it became necessary to destroy the town in order to save it' and 'a pity about the civilians.'"
Perhaps no words did more to change attitudes about the war than this single sentence, born out of Tet. The AP headquarters loved the Arnett story. Their in-house publication, AP Log, said: "One of the most graphic of the week's stories was Arnett's account of the destruction of Ben Tre 'to save it,' and his photos added to the story's impact..."
But was it true? William Touhy of the Los Angeles Times wrote a story six weeks later in which he said: "Only 25% of the city-rather than the reported 80%-was actually destroyed by the Vietcong attack and the Vietnamese artillery and U.S. air strikes that followed. And the U.S. advisory group doubts that the (Arnett) statement was actually made in that form. 'It sounds too pithy and clever to have been made on the spot,' says one U.S. civilian advisor. 'It just rings wrong.'"
Arnett refused to tell Braestrup whom the alleged major was who made the statement, claiming that he is still in military service. He said: "So I will keep my silence until I run into him again and get his clearance."
Braestrup says The Washington Post was considering running Touhy's debunking of Arnett, but Lee Lescaze, one of their two men in Saigon, (Braestrup was the other) recommended against it on the ground that there was a great deal of damage done and "whether it is less enormous than first thought seems a quibble."
Was Our Embassy Taken?
Many Americans still think that the Vietcong at the height of the Tet offensive occupied the American Embassy in Saigon on January 31, 1968. That is what both our wire services, which provide the news to most of our news- papers, radio and TV stations, reported. In their early reporting, both the AP and UPI had the Vietcong occupying the supposedly attack-proof embassy building. The AP reported that the enemy occupied parts of the building for six hours and that they had to be driven out by paratroopers who landed by helicopter on the roof of the building. The UP! Had the Vietcong reportedly occupying five floors of the embassy. They referred to a six-hour battle through "carpeted" offices.
The fact was that there were neither Vietcong nor carpets in the embassy offices. Nineteen Vietcong sappers broke into the embassy grounds in the early hours of the morning. Their mission was to blow up the building. Not one got inside the building, and by 9:00 A.M., 17 of them had been killed and 2 had been captured. Damage to the building was minimal, and the ambassador was back at work in his office before noon.
Top officials in both Saigon and Washington so informed the press, but the newsmen, reflecting their distrust of their own government and perhaps a willingness or even eager to believe the worst, wrote their stories in a way that cast doubt on what the officials said. The impression lingered on that the embassy had been occupied, and though the record was eventually corrected, the psychological damage done by the initial horror stories was immense.
Building Up the Vietcong
Braestrup shows that another tendency of the media was to exaggerate the strength and accomplishments of the Viet- cong. The little men were often made ten feet tall. They were bold and daring, unafraid to die. They were every- where. Their planning was presented as being faultless and they were supposed to have weapons as good as ours, and their techniques were even better.
The main trouble with all this was that it simply was not true. While their attacks were bold, the fact was that in Saigon they failed in virtually all of their missions.
A common theme of stories in The New York Times was sounded by Tom Buckle), on February 2, 1968. He wrote: "Despite official statistics to the contrary, no part of the country is secure either from terrorist bombs or from organized military operations . . . Most important, after years of fighting and tens of thousands of casualties, the Vietcong can still find thousands of men who are ready not only to strike at night and slip away, but also to undertake missions in which death is the only possible outcome."
Charles Mohr reinforced this the next day, blowing up the Vietcong achievements, saying: "The courage and motivation of the guerrilla units that struck Saigon, Dad Nang, the provincial capitals and many other towns and installations were important factors in the havoc they created... The attacks also showed excellent planning and valuable support by communist agents within the towns and cities."
Braestrup notes that Mohr ignored the holiday laxity of South Vietnamese leaders which had contributed to the enemy successes, and he left out the fact that the attacks on key installations in Saigon, whose planning he lauded. Had, for the most part, been failures.
The Times played up a story that claimed that the Vietcong were so good with mortars that they could often hit their target with a single round and then slip away before the helicopters could seek them out. The headline was: "Foe Giving Warfare Lessons With Simple Mortar." Braestrup noted that mortars were not precision weapons and that even in daytime when the crew was firing at a visible target direct hits were rate. Lie notes that the Vietcong usually fired at night and in a hurry and that they wasted most of their rounds in their hit and run attacks.
Braestrup points out that for all the noisy firing, not a single allied air base had to suspend operations, and that even Khe Sanh which was under siege for 77 days continued to receive big C-123 transports on its airstrip. "Few news- men noticed," he adds dryly.
Braestrup says that "there were few hints in Times analyses or battlefield reporting that the foe was anything but shrewd, tenacious, ascetic, infallible, and menacing."
One of the devices of our newsmen was to subtly impute greater presence to the Vietcong than was actually the case. For example, on the CBS Evening News of February 16, 1968, the viewers were informed that North Vietnamese truck convoys, operating at might, were unloading their cargoes at Communist-held entrances in the wall of the Citadel of Hue, the heart of the city. Accurately, the trucks were stopping and unloading well short of the city of Hue, but the CBS report gave the impression that the enemy control was far greater than it actually was.
NBC aired a captured Vietcong propaganda film purporting to show how they operated. The Vietcong claimed the film was made in the town of Cu Chi. NBC said: "It's doubtful these scenes were actually filmed in Cu Chi, since the is not an enemy stronghold now and U.S. officials insist it was not last year when this f'dm was produced." Braestrup notes matter of faculty: "There was nothing for U.S. officials to 'insist' upon; Cu Chi was a garrisoned district capital in Hau Nghia province less than two miles from the U.S. 25th Division base camp, which was established there in 1966.
Don Webster of CBS on March 4, 1968, proclaimed that "the enemy now has weapons every bit as good as the Americans." He said, the enemy "was attacking with new boldness and daring" and that Vietnam was a much more dangerous place than ever before." Braeamp notes that this statement about weapons was true only if Webster meant just small arms, and he said the "boldness and daring" had already noticeably decreased by the time Webster spoke.
Of Time magazine, Braestrup says that it presented the Tet attacks as demonstrations of "Giap's genius," the communists' "split-second timing" and "resiliency of communications and command, the quality of their weapon and their ability to strike at will anywhere in Vietnam. News- week also gave the impression of a "foe without setbacks or flaws." However, he does give Newsweek credit for an independent post-mortem of the enemy's performance at Tet. In this, Newsweek noted communist failures that caused their inability to reinforce their initial gains. Key bridges were not blown, they failed to capture the Saigon radio station, and they failed to commit major units, letting the momentum of the early attacks die.
However, Newsweek insisted that the attack was no failure despite these mistakes. It said: "Despite the fact that the communists did not achieve most of their objectives, their offensive was far from a failure ... it caught the (allies) by surprise and made a mockery of numerous allied claims that the enemy was too weak to stand up and fight..." Braestrup comments that the latter was a journalistic straw man, since Westmoreland and Wheeler had been promising more enemy initiatives and hard fighting, not claiming that he was too weak to fight.
Civilian Destruction and Deaths
Braestrup notes that the correspondents in Saigon were shocked by the fact that the war had come close to them. The dramatic picture was the one showing destruction and the pathos of refugees. The mini was that the world was given a picture of death and destruction in the cities that did not reflect reality. "All Vietnam," Braestrap says, judging from the film shown at home, "was in flames or being battered into ruins and all Vietnamese civilians were homeless refugees." He says this was not the case even in Hue, where the fighting lasted three weeks. Had reality been anything like what the American people were given to believe, "urban recovery could never have occurred."
In placing the blame for the destruction and deaths, our newsmen, Braestrup found, tended to blame the allies. The Vietcong tended to be exonerated.
An important mutation of this tendency was the lack of media interest in the massacre by the communists of civilian in the city of Hue during their three-week occupation of that city. Most newsmen showed no interest in the announcements in late February and March of the discovery of mass graves of tour-dared civilian on the outskirts of Hue. The first news of the massacre broke on February 11, 1968, when the mayor of Hue charged that 300 civilians had been executed by the Communists and buried in a mass grave south of the city.
The AP covered the story in seven paragraphs. The Washing- ton Post ran a six-paragraph story--on page 11. The New York Times put the story on page one, but devoted only three paragraphs to the massacre.
On February 28, the UPI put out a story about the discovery of 100 bodies in a common grave near Hue, and on March 3, the UPI reported that survivors of this atrocity reported that the victims had been forced to dig their own graves and were shot as they begged for mercy.
On March 6, William Ryan of the AP did a story about Hue. He noted in passing that "about 1,000 civilians have died." He said that the enemy forces had executed many of them and that mass graves had been found. Neither the Times nor the Post used this story, and Ryan was not enough interested to visit the graves.
On March 9, the U.S. Embassy issued a press release putting the number of murdered civilians at 400, saying that prisoners had admitted under interrogation that their commanders ordered the execution of almost 400 civilians around Hue. This attracted little media attention.
Stewart Harris for The Times of London wrote the first story with any detail on the massacre. The New York Times printed it on page 4 on March 28, 1968. Harris had actually taken the trouble to look at some of the graves and see the mutilated bodies. He reported for the first time that some of the victims were said to have been buried alive. However, Harris used a very conservative figure for the number executed-only 200.
Nothing more was said for a month.
On May 1, The New York Times reported that the United States Mission had upped its estimate of the number killed to 1,000 civilians. This story reported that indications were that nearly half of the victims had been buried alive and that many had been beaten unconscious before being buried. Only the first three paragraphs of this story were carried on page 1, under a one-column headline.
The Washington Post put this story on page 19, using a UPI dispatch.
That seems to have been the end of reporting on the Hue massacre until late in 1969, when the AP put out a story about the continuing search for bodies, revealing that the tell was up to more than 3,000. The Times carried this story on page 3, on November 13. On November 25, they carried another AP story reporting that a captured North Vietnamese document stated that they had "eliminated" nearly 2,900 people at Hue, including 2,720 civilians.
The story carried the suggestion that this information was being released to counter the growing furor over the allegation that U.S. troops had massacred 125 civilians at My Lai.
The Washington Post took notice of a study by a USIA official, Douglas Pike, "The Vietcong Strategy of Terror," in December 1969, in which he discussed his Findings on the Hue massacre, exposing the calculated policy that lay behind it. Pike reported that 2810 bodies had been found and 1,946 persons were still missing. The New York Times did not mention this study until May 17, 1970, and then only briefly. This was a few days after Tom Wicker, a columnist for The Times, had written that careful research had revealed that the executions had taken place "in the heat of battle and as the revenge of an army in retreat," not as deliberate policy. This was the exact opposite of Pike's carefully researched findings.
Braestrup advances several possible reasons for the media's lack of interest in the massacre. The best clue, however, is this statement: "In a sense, newsmen and their editors may have been as mentally unreceptive to reports of the Hue massacre as was much of the U.S. public later to reports in 1969 of the My Lai massacre." Stewart Harris, who wrote about the massacre for the London Times, was opposed to U.S. policy in Vietnam, and Time quoted him as saying of that story: "My instinct is not to sustain it (the war) by writing propaganda."
In November 1969, when the story of the My Lai massacre by American troops broke, the suspicion of atrocity stories and the reluctance to write "propaganda" vanished. In the space of six weeks The New York Times carried so many stories on My Lai that the listing of them required nearly three and a half pages of small type in the Times annual index.
Recently Reed Irvine, chairman of AIM, discussed this contrast with Arthur Ochs Sulzberger, the chairman of The New York Times, and Sydney Gresen, executive vice president of The Times. Mr. Gruson said that My Lai was given so much attention because it was an important story for the American people. Mr. Sulzberger turned to him and said quietly, "But what he is saying is that it was important because we made it important."
A Disgraceful Performance
In summing up his detailed study, Braestrup concludes:
"Rarely has contemporary crisis-journalism turned out, in retrospect, to have veered so widely from reality. Essentially, the dominant themes of the words and film from Vietnam . . . added up to a portrait of defeat for the allies. Historians, on the contrary, have concluded that the Tet offensive resulted in a severe military political setback for Hanoi in the South. To have portrayed such a setback for one side as a defeat for the other-in a major crisis abroad- cannot be counted as a triumph for American journalism."
Braestrup asserts, not convincingly, that ideological bias was not a dominant factor in the misrepresentation of the true facts of Tot. He shows that because of the defects in the way the news business works, the original false impressions of a Vietcong triumph got very heavy play, while the evidence that later came in to show the contrary got much less attention. "At Tet," he says, "the press shouted that the patient was dying, then weeks later began to whisper that he somehow seemed to be recovering-whispers apparently not heard amid the clamorous domestic reaction to the initial shouts."
There is reason to believe that ideology played a role in this. Braestrup points out that there was plenty of evidence of the true state of affairs in late February, but in mid-March CBS, NBC and Newsweek were still showing the North Vietnamese troops holding the initiative. NBC and CBS had both aired specials in which their news stars came out in opposition to the war, and Braestrup found that Newsweek had been strongly against the war long before Tet.
And as Edward Jay Epstein has told us, when Jack Fern of NBC approached executive producer Robert Northshield with the suggestion that they ought to do a special on Tet to set the record straight, because it had really been a victory for our side, Northshield refused. Later, when asked why, Northshield explained: "The public perceived it as a defeat, and therefore it was a defeat."
Big Story is a big and very important book. It will have to be read by our military tacticians, as well as by journalists, because it is a major contribution to the study of warfare. It proves the maxim that the pen in mightier than the sword, since the media treatment of Tet turned a military victory into a defeat. It helped bring about the results that Twining and Hoan described in their testimony before the House subcommittee.
Tài Liệu Thảm Sát Mậu Thân 1968
1.- KẾ HOẠCH TỔNG CÔNG KÍCH -TỔNG KHỞI NGHĨA 1968 CỦA VIỆT CỘNG ?( Phạm văn Sơn - Lê Văn Dương)
2.- TẤN CÔNG MẬU THÂN: TOAN TÍNH CỦA HOA KỲ VÀ CỘNG SẢN HÀNỘI ( Cao Thế Dung)
3.- Tình Hình Huế và Thừa Thiên trước Tết Mậu Thân 1968 ( Nguyễn Lý Tưởng)
4.- Vụ Tàn Sát ở Huế ( Thành Tín)
5.- Tết Mậu Thân ở Huế ( Hoàng Liên)
6.- Qua Trường Thiên Hựu ( Hồng Châu)
7.- Quân Giải Phóng Về ( Nhã ca)
8.- Cố Đô Trong Biến Cố ( Phạm Văn Sơn - Lê Văn Dương)
9.- Mậu Thân Ở Huế ( Nguyễn Lý Tưởng)
10.- Cái Chết của Bác sĩ KRAINICK ( Elje Vannema)
11.- Mậu Thân, Nỗi đau không dứt của ( Lê Hàn Sinh)
12.- GIA HỘI ( Oberdorfer, Don)
13.- Cố Đô Kinh Hoàng ( Elje Vannema )
14.- Mậu Thân 1968: Cải Táng Đồng Bào Bị Thảm Sát ( Võ Ngọc Tụng)
15.- Thảm Sát ( Peter Braestrup)
16.- Cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài ( Lm. Nguyễn Hữu Giảo và Phan Văn Lợi)
17.- Tưởng Niệm Bốn Mươi Năm Cuộc Thảm sát Mậu Thân : 1968-2008(Hàn Giang Trần Lệ Tuyền )
18.- Tàn sát Tết Mậu Thân tại Huế (1968) (phần I) (Trần Gia Phụng )
19.- Tàn sát Tết Mậu Thân tại Huế (1968) (phần II) (Trần Gia Phụng )
20.- Tàn sát Tết Mậu Thân tại Huế (1968) (phần III) (Trần Gia Phụng )
21.- Tàn sát Tết Mậu Thân tại Huế (1968) (kết) (Trần Gia Phụng )
22.- Đặt vấn đề cần xét sử cuộc tàn sát ở Huế Tết Mậu Thân(Ls. Trần Thanh Hiệp )
23.-Tết Mậu Thân – 40 năm sau (1968-2008) (I) (Trần Giao Thủy)
24.-Tết Mậu Thân – 40 năm sau (1968-2008) (II) (Trần Giao Thủy)
25.-Tết Mậu Thân – 40 năm sau (1968-2008) (Kết) (Trần Giao Thủy)
26.-Sổ Tay Mậu Thân: 1 Quân Đội Bị Lãng Quên (NGUYỄN XUÂN NGHĨA)
27.- Những diễn tiến quân sự và hậu quả của trận Tết Mậu Thân 1968 ở Huế (Việt Long )
28.- TRẬN CHIẾN MẬU THÂN TẠI HUẾ TỪ GÓC NHÌN CỦA NGƯỜI CHỈ HUY CHIẾN TRƯỜNG BẮC QUÂN (Nguyễn Ngọc Bích )
Subscribe to:
Posts (Atom)